Hôm nay,  

Ông Trời Trong Tâm Thức Việt

08/10/201100:00:00(Xem: 5297)

Ông Trời Trong Tâm Thức Việt

Cư Sĩ Nguyên Giác

Khái niệm Ông Trời đã có từ lâu trong kho tàng văn chương dân gian Việt, nhưng hình ảnh Ông Trời không hề mang ý nghĩa một đấng sáng tạo vũ trụ, mà chỉ là một chúng sinh, một người rất người trên cõi trời.

Ngay cả khi ca dao nói lên lời dân gian xin cho mưa xuống – như, “Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp...” – cũng không có nghĩa là xin một Ông Trời có quyền lực toàn năng của Đấng Sáng Tạo, mà chỉ là xin cho sự vận hành bốn mùa mưa thuận, gió hòa. Như thế nghĩa là tin vào lý tuần hoàn “thành, trụ, hoại, không” của nhà Phật, chứ không hề có lời cầu nguyện cho mưa trái mùa, cho gió nghịch hướng.

Và thậm chí, khi thấy đất trời không thuận, ông bà mình còn mắng cho vị cõi trên những câu như, ”Trời già cay độc,” hay như, “Trời xanh ghen phận má hồng.” Nghĩa là, ông bà mình tin rằng nếu có một Đấng Thượng Đế, một Đấng Sáng Tạo, thì có những lúc vị trời này hẳn là bất nhân, độc ác.

Cho nên văn học dân gian Việt Nam mới có những chuyện như “Con cóc là cậu ông Trời.”

Niềm tin về những chúng sinh trên cõi trời có đầy tham sân si như thế, và cũng bất toàn như thế... cho thấy dân tộc Việt cổ thời đã thấm nhuần triết lý Phật Giáo. Bởi vì, Đức Phật dạy rằng không hề có Đấng Sáng Tạo nào hết.

Một số nhà truyền giáo nước ngoài ưa nhắc tới những lúc Đức Phật im lặng, từ chối trả lời một số câu hỏi; họ diễn giải rằng, khi Đức Phật im lặng, không có nghĩa là Đức Phật bác bỏ kháí niệm vũ trụ vĩnh hằng (câu hỏi: vũ trụ này thường hằng") hay khái niệm vũ trụ không vĩnh hằng (câu hỏi: vũ trụ này là đoạn, là không thường hằng"). Và các nhà truyền giáo này diễn giải tiếp rằng, khái niệm vũ trụ vĩnh hằng là căn bản thần học của niềm tin vào một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, kẻ được họ tin là “vĩnh hằng, toàn năng, sinh ra vũ trụ và con người...”

Thực tế, những khái niệm như thế đã bị Đức Phật phủ nhận ngay từ những bài kinh đầu tiên: Tất cả các pháp đã là vô ngã, thì lấy ngã nào mà thường hằng" Tất cả các pháp đều do duyên khởi, khi duyên hợp thì pháp hiện ra, và khi duyên tan thì pháp biến mất, dù có nói về “thường hay đoạn” đều là trật cả.

Đó là lý do Đức Phật giữ im lặng trong Bài Kinh 63 của Trung Bộ Kinh, “Cula-Malunkyovada Sutta: The Shorter Instructions to Malunkya” (Bản dịch của HT Thích Minh Châu: Tiểu Kinh Malunkyaputta). (1)

Chuyện này dễ hiểu, cũng tương tự như một giáo sư toán bậc Đại Học, khi giải thích một bài toán cho nhiều học sinh ở nhiều trình độ khác nhau, sẽ dùng nhiều cách giải thích tùy trình độ các lớp của các học sinh, và có khi thì giữ im lặng.

Những điểm rất căn bản đã được Đức Phật nêu ra ngay từ những bài kinh đầu tiên: vô ngã, và duyên khởi. Đó là những nền tảng để phủ bác khái niệm về cái gọi là Đấng Thượng Đế Vĩnh Hằng, Đấng Thượng Đế Sáng Tạo.

Nhưng cũng có lần Đức Phật đã trả lời minh bạch rằng có những vị Bà-la-môn “luận bàn về phía quá khứ tối sơ, chấp kiến về quá khứ tối sơ... chủ trương Thường trú luận, và chấp rằng bản ngã và thế giới là thường còn” đều là sai lầm. Lời Đức Phật nơi đây rất minh bạch, rằng không hề có cái gì gọi là Đấng Sáng Tạo, và đó chỉ là chấp kiến.

Đức Phật đã diễn giải chi tiết câu trả lời đó trong Bài Kinh 1 của Trường Bộ Kinh, “Brahmajala Sutta: The All-embracing Net of Views” (Bản dịch của HT Thích Minh Châu: Kinh Phạm Võng). (2)

Có thể trích như sau từ Kinh Phạm Võng để làm sáng tỏ rằng, Đức Phật đã bác bỏ khái niệm về một Nước Trời Vĩnh Hằng, nơi tà kiến tin là có một Bản Ngã và Nước Trời Thường Trú:

“...Này các Tỷ-kheo có những Sa-môn, Bà-la-môn, luận bàn về quá khứ tối sơ, chấp kiến về quá khứ tối sơ, y cứ về quá khứ tối sơ, đề xướng nhiều sở kiến sai khác, với mười tám luận chấp...

...Người ấy nói rằng: "Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đảnh núi, như trụ đá; còn những loại hữu tình kia thời lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú. Tại sao vậy" Vì rằng tôi do nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm... còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú".

Này các Tỷ-kheo đó là lập trường thứ nhất, y chỉ theo đó, căn cứ theo đó, một số những vị Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, và chấp rằng bản ngã và thế giới là thường còn... 

36. Này các Tỷ-kheo, Như Lai tuệ tri như thế này: "Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy, chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến những cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy". Như Lai biết như vậy, Ngài lại biết hơn thế nữa, và Ngài không chấp sở tri ấy. Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm chứng được tịch tịnh. Ngài như thật biết sự tập khởi, sự diệt trừ của các thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của chúng. Nhờ biết vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.

37. Những chấp pháp ấy, này các Tỷ-kheo, là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt ngoài tầm của luận lý suông, tế nhị, chỉ những người có trí mới có thể phân biệt. Những pháp ấy, Như Lai đã thắng tri, giác ngộ và tuyên thuyết; và chính những pháp ấy, những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.”(hết trích)

Không chỉ bác bỏ khái niệm Thượng Đế Sáng Tạo, trong Kinh Phật còn có một số nơi chế giễu các vị Vua Cõi Trời. Nghĩa là, không hề có một Đấng Thượng Đế Toàn Năng nào, mà thực ra chỉ có một số chúng sinh trên nhiều cõi trời khác nhau, và họ cũng theo nghiệp thọ sinh mà thôi.

Và chúng ta hãy tin rằng, khi đã chế giễu khái niệm Thượng Đế Toàn Năng, có nghĩa là không tin rằng có cái gọi là Thượng Đế Toàn Năng đó. Cũng tương tự như dân tộc Việt Nam thời xưa khi kể chuyện “Con cóc là cậu ông Trời” để chế giễu khái niệm Thượng Đế Toàn Năng đó.

Ấn Độ Giáo tin vào Đấng Thượng Đế (vua các cõi trời), có khi gọi là Sakka (Thiên Chủ), có khi gọi là Mahabrahmanah (Đại Phạm Thiên).

Một thí dụ tìm thấy trong Kinh 37 trong Trung Bộ Kinh, “Culatanhasankhaya Sutta: The Major Discourse on the Destruction of Craving” (Bản dịch của HT Thích Minh Châu: Tiểu kinh Đoạn tận ái). (3)

Trích từ bản dịch của HT Thích Minh Châu:

“...Tôn giả Maha Moggallana liền thị hiện thần thông lực, dùng ngón chân cái làm cho lầu Vejayanta rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Thiên chủ Sakka, đại vương Sessavana và chư thiên ở cõi trời Ba mươi ba, tâm cảm thấy kỳ diệu, hy hữu: "Thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay đại thần thông lực, đại oai lực của Tôn giả Sa-môn! Với ngón chân cái, vị này làm cho thiên cung này rung động, chuyển động, chấn động mạnh!"...” (hết trích)

Chúng ta thấy rằng, chưa cần tới Đức Phật, mà một học trò của Đức Phật như ngài Maha Moggallana (Đại Mục Kiền Liên) cũng đủ sức làm chấn động 33 cõi trời, và làm Đấng Vua Trời phải chấn động.

Hay như khi vị Vua Cõi Trời bế tắc trước câu hỏi về bốn đại chủng, Đấng Vua Nước Trời này đã phải chịu thua, và khuyên người hỏi rằng nên tìm câu trả lời từ Đức Phật, vị có trí tuệ toàn mãn.

Chuyện này ghi ở Kinh thứ 11 trong Trường Bộ Kinh, “Kevatta (Kevaddha) Sutta: To Kevatta” (Bản dịch của HT Thích Minh Châu: Kinh Kiên Cố). (4)

Trích từ kinh này như sau:

“...81. Này Kevaddha, không bao lâu, Đại Phạm thiên xuất hiện. Lúc bấy giờ, này Kevaddha, Tỷ-kheo ấy đến Đại Phạm thiên. Khi đến xong, liền hỏi Phạm thiên: "Này Hiền giả, bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn"" - Này Kevaddha, được nghe nói vậy, Đại Phạm thiên nói với Tỷ-kheo ấy: "Này Tỷ-kheo, Ta là Phạm thiên, Đại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh".

82. Này Kevaddha, lần thứ hai Tỷ-kheo ấy nói với Phạm thiên: "Này Hiền giả, tôi không hỏi: "Ngài có phải là Phạm thiên, Đại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Đại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh". Này Hiền giả, tôi hỏi: "Này Hiền giả, bốn đại chủng này - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn""...

...Này Kevaddha, khi bấy giờ Đại Phạm thiên cầm tay Tỷ-kheo ấy, kéo ra một bên rồi nói với Tỷ-kheo: "Này Tỷ-kheo, chư Thiên Brahmà Kayikà xem rằng không có gì Phạm thiên không thấy, không có gì Phạm thiên không hiểu, không có gì Phạm thiên không chứng. Do vậy, trước mặt chúng, ta không có trả lời: "Này Tỷ-kheo, ta không được biết bốn đại chủng ấy - địa đại... phong đại - đi đâu, sau khi biến diệt hoàn toàn". Do vậy, này Tỷ-kheo, Ngươi đã làm sai, Ngươi đã lầm lẫn, khi Ngươi bỏ qua Thế Tôn, hướng đến người khác để trả lời câu hỏi ấy. Này Tỷ-kheo, Ngươi hãy đi đến Thế Tôn hỏi câu hỏi ấy, và hãy thọ trì những gì Thế Tôn trả lời"...”(hết trích)

Chúng ta cũng có thể dẫn ra một số nơi khác trong Kinh Phật, khi Vua Cõi Trời phải tới xin học với Đức Phật. Thí dụ, như khi Vua Cõi Trời thấy vòng hoa trên người bắt đầu héo, nên phải tới xin vấn pháp Đức Phật.

Như thế, rõ ràng rằng Đức Phật đã nói rất minh bạch, không hề có cái gì gọi là Thượng Đế Sáng Tạo. Và Đức Phật cũng nói rõ rằng, chính các Vua Cõi Trời vẫn phải tới xin học với Đức Phật.

Tương tự, kháí niệm ông Trời trong ca dao tục ngữ Việt Nam cũng là cháu của con cóc thôi.

GHI CHÚ:

(1) Nối kết ở: Tiểu kinh Màlunkyà, http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-781_5-50_6-1_17-27_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark

(2) Nối kết ở: Kinh Phạm Võng, http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-108_5-50_6-1_17-41_14-1_15-1/.

(3) Nối kết ở: Tiểu kinh Đoạn tận ái, http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-718_5-50_6-1_17-27_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark

(4) Nối kết ở: Kinh Kiên Cố, http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-118_5-50_6-1_17-35_14-1_15-1/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.