Hôm nay,  

Giao Trứng Cho Ác

28/06/200800:00:00(Xem: 8623)
‘Vào Ra Không Kể’ là kinh tế chính trị học... kiểu Hà Nội...

Khi chẩn đoán kinh tế Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều nói đúng bệnh - chuyện không khó - mà lại không mó ra tật, là việc khó hơn nếu họ chưa hiểu được "kinh tế chính trị học Hà Nội".

Vì vậy, chúng ta cần nhìn lại, từ đầu, và từ trên xuống.... 

Việt Nam mất hơn 10 năm thương thuyết để xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Cuối cùng, năm 2007 là lúc giong buồm ra khơi, khi đã hềt trò chơi ngăn sông cấm chợ. Việt Nam ăn mừng là được hội nhập vào luồng trao đổi kinh tế toàn cầu. Đa số dân chúng đều mừng, chỉ một thiểu số được ăn.

Cả thế giới ngợi ca biến cố lịch sử ấy, rằng rốt cuộc rồi Việt Nam cũng giã từ ảo vọng cộng sản chủ nghĩa và mở cửa làm ăn với thế giới văn minh. Cả thế giới vẫn sai: "làm" là công việc của đại đa số, "ăn" là lợi thế của một thiểu số.

Sự hiểu lầm ấy là phổ biến, nhưng cần được nhắc nhở hoài hoài khi ta phân tách các triệu chứng khủng hoảng kinh tế hiện nay.

***

Nhìn trên mệnh giá, bạc mặt và ở ngoài da, các nhà nghiên cứu kinh tế đều có thể phán xét -không sai - rằng một năm sau khi gia nhập kinh tế Việt Nam đang bị điêu đứng vì một lượng tiền quá lớn đã được trút vào một cơ chế kinh tế quá lỏng lẻo, với chánh sách tài chánh bất cập.

Chúng ta cần diễn giải nhận xét ấy cho dễ hiểu:

Năm 2007, sự lạc quan thái quá của Chính quyền Hà Nội, của các nhà đầu tư ngoại quốc và của cả người Việt ở hải ngoại đã trút tiền về Việt Nam, khiến xứ này tiếp nhận một nguồn tiền lớn lao chưa hề có trong lịch sử. Nguồn tiền ấy là ngoại tệ, chủ yếu là đô la, giúp cho cán cân chi phó của Việt Nam. Cán cân chi phó là kết số thu chi bằng ngoại tệ, gồm cán cân thương mại - sai biệt của xuất nhập cảng - và các khoản thu khác, như đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài, viện trợ chính thức của quốc tế, và tiền bạc người Việt từ bên ngoài gửi về Việt Nam.

Trong các khoản thu này, lớn lao và đáng kể nhất là tiền bạc của người Việt, mà Hà Nội gọi là kiều hối. Nếu phiên dịch cho đúng thì đấy là sự... hối lỗi của Việt kiều, vào năm 2008. Nhưng, hãy tạm hoãn nói về sự hối lỗi đó... để giải thích tiếp về những bất cập của cơ chế và chánh sách.

Trong các năm 2005 và 2006, cán cân chi phó của Việt Nam được thặng dư khoảng 5-6% tổng sản lượng nội địa GDP. Tổng sản lượng nội địa GDP là tổng số sản vật và dịch vụ được sản xuất thêm trên lãnh thổ Việt Nam trong một năm, là tổng số xuất lượng khấu trừ các nhập lượng của từng chặng sản xuất, và cả sai biệt về xuất nhập cảng. Nói cho nôm na là trị giá gia tăng do cả nước làm ra trong một năm. Qua năm 2007, hiệu ứng lạc quan vì viễn ảnh WTO khiến xứ này đón nhận quá nhiều tiền và đạt mức thặng dư khoảng 25% tổng sản lượng nội địa.

Giới tài chánh quốc tế ước lượng số thặng dư đó của năm ngoái khoảng hơn 17 tỷ đô la. Trong số ấy, lượng "kiều hối" của bà con gửi về giúp thân nhân xây dựng đất nước lên tới 10 tỷ - xin đừng quên yếu tố này khi người viết gọi đó là sự hối lỗi! Phần còn lại là đầu tư trực tiếp (như lập nhà máy tại Việt Nam) và đầu tư gián tiếp (mua tài sản tại Việt Nam, thí dụ như cổ phiếu, để kiếm lời) và viện trợ chính thức.

Ngoại tệ tràn vào như nước có thể đóng góp cho sản xuất - vốn là mục tiêu lý thuyết và nguyên thủy. Nhưng trước khi tăng gia sản xuất thì đã gây ra vấn đề: làm đồng bạc Việt Nam lên giá. Tiền Việt Nam lên giá khiến hàng Việt Nam đắt giá và khó cạnh tranh trên thị trường xuất cảng. Làm sao giải quyết vấn đề dù sao cũng rất cổ điển này, nhất là khi đô la đang mất giá đều trên thị trường quốc tế"

Việt Nam can thiệp vào thị trường hối đoái (hay "ngoại hối", nói theo người Hà Nội), và thực tế là đánh ngược sóng thị trường, bằng cách bơm ra tiền đồng để thu vào tiền Mỹ. Bơm ra tiền đồng là mặc nhiên gây lạm phát tiền tệ vì có quá nhiều tiền chạy theo một số sản vật nhất định. Đó là chuyện năm ngoái, như hồi tháng Năm, khi 112 tỷ bạc được bơm ra với hy vọng thu vào bảy tỷ đô la ngoài chợ. Ngân hàng Trung ương của Việt Nam phải thi hành cái việc ngặt nghèo đó, và nhằm tránh lạm phát, năm nay phải vừa bơm tiền ra vừa cố hút tiền vào (phát hành trái phiếu, vay tiền trên thị trường ngỏ, và nâng dự trữ pháp định của các ngân hàng), với một cơ chế lỏng lẻo là hệ thống ngân hàng.

Việc vừa phóng tiền ra vừa hút tiền vào như vậy không đạt kết quả. Một trong nhiều nguyên nhân là lãi suất tiền đồng cao hơn lãi suất của đồng Mỹ kim cất trong khối dự trữ. Phí tổn đó, Ngân hàng Trung ương phải lãnh, nên... ngần ngại thi hành. Vì sao Ngân hàng Trung ương lại lãnh trách nhiệm quái đản và mâu thuẫn này là một phần khác của kinh tế chính trị học Hà Nội. Quái đản vì Ngân hàng Trung ương không chu toàn được trách nhiệm chính là kiểm soát hoạt động của hệ thống ngân hàng và là điều tiết khối lượng tiền tệ lưu hành trong nước. Mâu thuẫn vì chế độ hối đoái của Việt Nam giàng giá đồng bạc vào Mỹ kim theo một tỷ giá cố định do nhà nước ấn định và chỉ điều chỉnh rất ít.

Chưa hết!

Trong nhiều năm liền, hệ thống ngân hàng (đa số, tính theo tài sản và lượng tín dụng, vẫn là quốc doanh) của Việt Nam hồn nhiên bơm tiền vào kinh tế với khối tín dụng được cấp phát bừa bãi và gia tăng trung bình chừng 32% một năm. Qua năm 2007, người ta không chỉ hồn nhiên mà còn tích cực cho vay, với khối tín dụng cấp phát gia tăng hơn 50%, đa số lại là loại nợ bấp bênh, khó đòi và dễ mất. Trên toàn cõi Đông Á, dư nợ tín dụng của Việt Nam lên tới mức kỷ lục tính theo lợi tức một đầu người, và vượt quá 90% tổng sản lượng GDP.

Một hệ thống ngân hàng non yếu, thiếu vốn và kém khả năng mà lại huy động một nguồn tín dụng quá lớn như vậy thì chẳng khác gì cho đứa trẻ lái xe có phân khối cao được thoải mái tống ga. Và tất nhiên gây ra tai nạn, là chuyện sẽ nói sau.

Trước hết, nguồn tiền ấy được phân bố không đúng nơi, chủ yếu là chảy vào túi những kẻ có chức có quyền và thổi lên các trái bóng đầu cơ từ chứng khoán tới địa ốc. Chuyện ai làm và ai ăn là như vậy - cho tới ngày bóng bể.

Từ 167 điểm năm 2003, chỉ số VN Index của thị trường chứng khoán Sàigon tăng vọt lên đỉnh cao 1.170 điểm vào tháng Ba năm 2007. Xin vài chi tiết giải thich thêm: giá trị một cổ phiếu tùy thuộc vào khả năng sinh lời và chia lời của công ty phát hành (là số cổ tức chia cho các cổ đông) và chi phối trị giá. Trị giá cổ phiếu trên thị trường chia cho cổ tức là chỉ số PE, một thước đo về triển vọng sinh lời. Trong có ba tháng đầu năm ngoái, chỉ số PE của các công ty yết giá tại Sàigon đã tăng 50 lần nên ai ai cũng nói tới việc chơi stock! Vay tiền ngân hàng với lãi suất âm - vì thấp hơn lạm phát - để đi vào một thị trường tăng giá gấp năm chục lần trong vài tháng thì ai không ham"

Sống trong bong bóng là như vậy. Nhưng không phải ai ai cũng được hoàn cảnh đó. Chỉ có nửa triệu người sinh sống trong thành phố mới có khả năng mơ mộng như vậy, nhưng thủ thuật khớp lệnh để tính giá mua bán trên thị trường này khiến một thiểu số đại gia là có lời lớn khi sóng triều lên. Khi đó, đa số cò con còn lại thì chỉ được ngửi mùi hương - rồi lỗ thật khi trái bóng đầu cơ bị bể, là chuyện đáng lẽ ai cũng phải thấy từ trước. Khốn nỗi, sự thiếu am hiểu và lòng tham đã làm mờ mắt nhiều người, một khía cạnh khác của chuyện hối lỗi.

Khi nói Việt Nam đã mất cả chục tỷ trên thị trường chứng khoán người ta quên không hỏi là ai được" Trên thị trường gọi là hơn bù kém này (quy luật "zero sum game"), khoản lỗ của đám đông khờ dại là số lời của thiểu số tinh ma. Thiểu số ấy là ai"

Không chơi stock, người ta đẩy tiền qua thị trường địa ốc khiến thị trường này tăng giá gấp đôi. Câu nói "tấc đất tất vàng" phải được hiểu theo nghĩa đen, vì nhà cửa và phòng ốc tại các thành phố lớn đã đắt giá hơn cả các trung tâm kinh doanh Đông Nam Á. Rồi trái bóng ấy cũng đang bể.

Trở lại chuyện ngân hàng và đứa trẻ lái xe chạy bậy. Tai nạn mà đáng lẽ ai cũng phải thấy trước là nạn lạm phát ngày nay - mà người nghèo đói là nạn nhân đầu tiên. Ngày nay, người ta cứ hay đổ lỗi cho nạn lạm phát toàn cầu vì thương phẩm (nguyên nhiên vật liệu và nông sản) lên giá đồng loạt. Trước khi đó, cơ chế và chánh sách của Việt Nam đã tự gây hoạ cho mình! 

Việt Nam bị lạm phát tiền tệ ở vế cung vì đẩy ra một lượng tiền dư dôi quá nhiều, trước khi lãnh họa lạm phát nhập cảng từ vế cầu, là phải mua hàng đắt giá hơn. Các chuyên gia kinh tế giải thích như vậy, nhưng nói cho nôm na dễ hiểu thì Việt Nam bị lạm phát vì chính quyền dốt nát mù mờ. Mò mẫm mãi rồi họ mới chịu nâng lãi suất nửa vời vì vẫn chỉ là lãi suất âm. Loay hoay mãi giữa hai nhu cầu bơm và hút, họ gây ra tình trạng quái đản là tiền chảy đầy sông mà tín dụng ngân hàng bị cạn kiệt, nhiều doanh nghiệp không vay được tiền để sản xuất, để kinh doanh!

Làm và ăn khác nhau là ở đó!

***

Nhưng bài toán ấy chưa đủ phức tạp vì chúng ta phải trở lại nguyên ủy của vấn đề. Là ngoại tệ.

Khi tiền vào như nước vì hiệu ứng hồ hởi của WTO, một số người có chức có quyền đã như bị... đồng nhập: họ nhập cảng bừa phứa. Tiền rẻ với lãi suất hạ khiến tín dụng gia tăng ào ạt, tính đến tháng Ba năm nay là khi khủng hoảng bùng nổ thì tín dụng đã tăng hơn 60% quy ra toản năm, cao gấp rưỡi số gia tăng ký thác, nghĩa là lạm phát sẽ còn hoành hành. Trong sáu tháng đầu năm đã tăng gần 27%. Đối giá của hiện tượng đó là nạn nhập cảng, tăng hơn 70% kể từ đầu năm nay, và người ta không chỉ nhập cảng máy móc hay nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất mà còn rất nhiều sản phẩm phù du khác. Kể cả vàng! Ngày nay, khi dân chúng mua vàng thì họ mặc nhiên bỏ phiếu... bất tín nhiệm chính quyền, cơ chế và chánh sách kinh tế đầy bất trắc của Việt Nam.

Nhưng không phải ai ai cũng có quyền xin giấy phép nhập cảng như vậy. Rất nhiều doanh nghiệp trong hệ thống nhà nước có độc quyền thi hành việc đó, kể cả các doanh nghiệp tự xưng tư doanh được thiết lập ở các nước Đông Nam Á. Đấy là những máy bơm tiền... ra ngoài và trưng thu hoa hồng hay sai biệt hối suất ở giữa. Hậu quả là kinh tế bị nhập siêu, nhập nhiều hơn xuất, và tròn trịa làm sao, mức nhập siêu đó đã lên tới 17 tỷ, là số thặng dư của năm ngoái. Còn thặng dư chi phó của năm nay" Đã tan theo ngày nắng vội.

Xin đọc lại một chút: vì hồ hởi với viễn ảnh WTO, người ta đã trút tiền vào Việt Nam, ngày nay lượng tiền ấy chảy ra ngoài, và đem lại lợi ích cho một số doanh nghiệp hay cá nhân ngồi vào vị trí trung gian để chuyển hoá tiền từ nhập thành xuất. Làm và ăn khác nhau là ở đó. Bây giờ, yêu cầu họ tôn trọng kỷ luật chi thu và giới hạn nhập cảng thì ai nghe" Chủ tịch Allan Greenspan nổi tiếng của Hoa Kỳ và thế giới mà có ngồi vào vị trí Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì cũng phải bó tay.

Vì ông không là Trung ương Ủy viên hoặc có thân tộc ngồi trong bộ Chính trị.

***

Chuyện kinh tế chính trị học ấy hơi khó hiểu nên cần giải thích thêm.

Mọi kinh tế gia "vô can" đều có thể khuyên Việt Nam một số biện pháp kinh điển và cổ điển là 1) xiết chặt tiền tệ bằng cách nâng lãi suất, cả lãi suất huy động ký thác lẫn lãi suất cho vay; 2) tiết giảm công chi, nhất là công chi cho các dự án phù du của nhà nước và 3) giới hạn hoạt động phi kinh tế và kém hiệu năng của doanh nghiệp nhà nước.

Nhưng, dù xuất phát từ các thầy thuốc đại tài, phương thuốc ấy không ngăn được bệnh kinh tế vì không giải quyết được cái tật chính trị bên dưới, trong cơ chế chính trị của Việt Nam.

Vì quyền lợi của họ, thiểu số có chức có quyền sẽ cản trở hoặc không chấp hành, thậm chí phá hoại những biện pháp đúng đắn này. Nếu có cách chức Thống đốc Ngân hàng Trung ương, thay thế Bộ trưởng Tài chánh và Phó Thủ tướng đặc trách kinh tế tài chánh (nguyên bộ trưởng Tài chánh thời hồ hởi đã qua), thậm chí có cho Thủ tướng về vườn về mọi lý do linh tinh thì vẫn không giải quyết được vấn đề. Vì những người tân nhậm sẽ tiếp tục phục vụ cơ chế ấy, với những chánh sách quái đản cố hữu.

Niềm hy vọng duy nhất còn lại là chuyện "thiên hạ đồng thọ", là khi thị trường phán xét thì mọi người cùng chết. Đây là một sự bi quan nhuốm mùi lạc quan!

***

Năm 1997, thị trường đã một lần phán xét khiến khủng hoảng hối đoái bùng nổ tại Thái Lan vào ngày hai tháng Bảy, rồi lây lan qua Đông Nam Á, chạy ngược lên Đông Bắc Á thành khủng hoảng kinh tế Đông Á. Khủng hoảng lan tiếp qua Nga, qua Brazil và dội về New York.... Hàng loạt chính quyền đã bị đổ, đảng cầm quyền thất cử, các chính quyền mới phải cải tổ lại cơ chế và thay đổi từ chiến lược phát triển tới chánh sách kinh tế tài chánh, v.v....

Trong cuộc khủng hoảng đó, con thuyền Việt Nam mới chỉ mon men ở chốn ao hồ nên không trực tiếp bị sóng đánh, và đó là nhờ thiên tài của đảng. Bây giờ, con thuyền manh đó đã giăng buồm ra khơi nên sự thể sẽ khác khi thị trường tính sổ, thành ra thiên tai cho dân.

Cách đây ba tháng, giới quan sát kinh tế tài chánh quốc tế ước đoán rằng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam ở khoảng 23 tỷ 600 triệu Mỹ kim. Tuần qua, Việt Nam long trọng công bố để trấn an dư luận, rằng mình có khối dự trữ ngoại tệ khoảng hai chục tỷ. Phần sai biệt hơn ba tỷ có thể là lầm lẫn kế toán trong cõi âm dương mù mờ của bí mật nhà nước. Nhiều phần là nhờ tài phù phép của những người trong cuộc!

Khi loan báo rằng mình có tấm nệm khá dày như vậy, bằng bốn năm tháng nhập cảng, người ta cho rằng đấy là yếu tố an toàn. Nhưng, nếu so sánh với trường hợp Thái Lan năm 1997, thì tấm nệm đó chỉ là mảnh bè nát. Tức là nguy cơ khủng hoảng vẫn còn đó, có thật và tai hại vô lường.

Đó là phần bi quan của kịch bản. Tuy nhiên, như trong truyện "Tái ông thất mã", nếu khủng hoảng bùng nổ, may ra Việt Nam có cơ hội bằng vàng để cải tổ cơ chế. Đó là phần lạc quan.

Một thí dụ lý thuyết: nếu một chính quyền Đông Á mà bị khủng hoảng như Việt Nam thì phải mở ra bốn hướng cải cách sau đây: 1) trước tiên là chấn chỉnh hệ thống ngân hàng và thị trường tài chánh cho lành mạnh hơn; 2) kế tiếp là kiện toàn hạ tầng cơ sở cứng và mềm của xứ sở ("cứng" là hạ tầng vật chất cho môi trường sản xuất, "mềm" là hạ tầng luật lệ của môi trường kinh doanh), 3) cấp bách nâng sao năng suất lao động nhờ đầu tư rất mạnh vào... cái đầu, tức là cải cách giáo dục và đào tạo; và 4) sau cùng mà trên hết, giải quyết những bất công trong cơ chế và xã hội để nâng cao lợi tức và quyền tự do cho quảng đại quần chúng bình dân.

Nếu Việt Nam có tự do và dân chủ thì một đảng chính trị đối lập có thể sẽ đưa ra chương trình tranh cử gồm bốn điểm ấy với hy vọng sẽ đem lại một tương lai khác cho người dân. Nhưng, đó là phần lạc quan của chuyện rừng thỏ lông rùa.

Vì sẽ để đảng Cộng sản vào đâu"

Chuyển viển vông ấy không thể có nên mới nói là bi quan. Nhưng, lạc quan chừng nào, đây lại là thời thịnh đạt cho việc tẩu tán tài sản. Thiểu số đã kiếm lời rất nhiều trong thời nhá nhem vừa qua có thể là kém hiểu biết (ignorant), chứ không ngu (stupid). Tài sản họ dày công tích lũy được mà cứ để nằm đó thì sẽ bị thị trường quét sạch, hay bị phe bên kia cướp hết. Cho nên cũng phải lên đường vượt biên! Khi khủng hoảng Thái Lan bùng nổ, tư bản đã tháo chạy ào ạt, lần này cũng vậy mà thôi.

Khi nhìn vào vòng quay của đồng tiền - lượng "kiều hối" từ bên ngoài trút vào đang được thiểu số đảng viên cán bộ phù phép thổi ra ngoài - ta có quyền tự hỏi về yếu tố hối lỗi trong kiều hối. Nay đang tuôn chảy ra ngoài sau khi đã được rửa cho sạch.

Một kinh tế gia như Allan Greenspan có thể cóc biết điều ấy. Mà cũng chẳng cần biết. Nhưng chúng ta thì nên biết vì kinh tế chính trị học kiểu Hà Nội giúp ta hiểu ra quy luật kinh tế đạo đức học là "giao trứng cho ác"!

Còn than nỗi gì"

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.