Thông điệp của TT Bush khi tuyên thệ nhiệm kỳ hai gởi cho thế giới và Mỹ là một tuyên ngôn về tự do. Diễn văn chỉ nói lên niềm tin của Ông rằng nước Mỹ không những chỉ là một trong nhiều nước trên thế giới, mà là một nước với nhiệm vụ duy nhứt là giúp đem lại hy vọng tự do cho hàng triệu người đồng loại ở các nước đang mất tự do. Tụ do là một món quà của Đấng Sáng Tạo, một quyền bất khả tương nhượng của Con Người với tư cách là người.
Ông nói, "Hôm nay, Mỹ Quốc nói lại với mọi người trên thế giới. Tất cả những ai sống trong độc tài chuyên chế và trong vô vọng biết rằng-Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ sẽ không quên các bạn đang bị áp bức và không tha thứ những kẻ đàn áp các bạn. Khi các bạn đứng lên vì tự do, chúng tôi sẽ đứng cùng các bạn." Đây không phải là sự chọn chữ làm câu theo thuật tu từ để đọc cho kêu, nghe cho "nổ". Mà đây là tuyên ngôn của một vị tổng thống nhiệm kỳ hai, không có nhu cầu kiếm phiếu nữa, trái lại muốn đi vào lịch sử của Mỹ và thế giới. Đó là một tuyên hứa dấn thân vào thế giới trong cuộc đấu tranh cho tự do cho đồng loại. Đây là một lời tuyên hứa có thể thể hiện bằng hành động của một đệ nhứt siêu cường mà TT Bush là người lãnh đạo quốc gia trong cũng như ngoài nước.
Nhứt định không ít người bực mình hỏi, "đồng ý tự do, nhưng làm sao đây." Hành động mà TT Bush sẽ làm trong cuộc đấu tranh cho tự do cho người dân trên thế giới có cần thiết, có thích hợp, có hợp lý không hay là một hành động nguy hiểm trắng trợn. Mệnh đề chánh, "Chúng tôi sẽ đứng với các bạn" sau mệnh đề phụ "khi các bạn đứng lên vì tự do" có ý nghĩa gì" Phải chăng Mỹ sẽ đưa quân Mỹ đến tiếp người dân một nước ờ góc trời nào đó để lật đổ độc tài, nhơn danh tự do. Hay giúp tiền bạc, vũ khí để ủng hộ quân nổi dậy giải trừ nhà cầm quyền độc tài. Hoặc khi chế độ độc tài và nhà độc tài tỏ vẻ nhượng bộ, ngưng đàn áp, bóc lột người dân thì liệu Mỹ có đi với nhà độc tài và chế độ độc tài ấy không. Và còn rất nhiều cách hỏi và nhiều ý nghĩa có thể đặt ra nữa đối với câu nói của TT Bush gồm hai mệnh đề chánh và phụ này.
Nhưng có một điều chắc, một sự kiện lịch sử rõ là những tổng thống Mỹ thiết tha với niềm tin và giá trị tự do là những tổng thống đi vào Đền Danh Nhân của Hoa kỳ. Điều này TT Bush có dẫn dụ tên trong bài diễn văn về tình trạng Liên bang. Đặc biệt những tổng thống này tin tự do không phải là một món quà của luật pháp do con người tặêng cho, mà do ý muốn của Đấng Sáng Tạo siêu nhiên, khi tạo ra Con Người. Tự do vì thế là một quyền thiêng liêng, bất khả tước đoạt, và bất khả tương nhượng. Thí du, TT John Adams tiếp theo TT Geroge Washington viết thơ cho vợ là Bà Abigail, rằng "Tôi phải học chánh trị và chiến tranh để con cái tôi có tự do học toán, triết học.. hầu chúng có thể trao cho con cái của chúng quyền học thơ, họa (và) nhạc.”
TT Abraham Lincoln tin tự do đến mức, bằng một chữ ký nhanh gọn, trả lại tự do cho hàng trăm ngàn nô lệ một lần. Niềm tin của Ộng dẫn đến cuộc Nội Chiến. Ông đau khổ cảnh cốt nhục tương tàn. Nhưng Ông chịu đựng và giữ vững niềm tin đến khi cả nước vui tư do với dân nô lệ da đen, bắc nam sụp họp, cùng với Ông chấm dút nội chiến và khi Ông ký Tuyên Ngôn Trả Tư do cho người Mỹ Da Đen. Dù cuối cùng trong niềm vui chung của đất nước, Ông phải kết thúc cuộc đời tin vào tự do của Ông bằng một phát súng của người cuồng tín về nô lệ đã ám sát Ông. Nhưng Ông vẫn là một vị tổng thống Mỹ toàn dân Mỹ nhớ ơn như nhớ TT George Washington, vị cha già của dân tộc Mỹ.
Còn TT Woodrow Wilson sau 7 tháng tại vị, ngày 13, tháng 10, năm 1913 trước Đệ Nhứt Thế Chiến, "Tôi thuộc về phe một nước nghèo có tự do hơn là về phe một nước giàu không thích tự do nữa. Nhưng chúng ta sẽ không nghèo nếu chúng ta yêu tự do, vì một nước yêu tự do tạo điều kiện cho mọi người đều được tự do." Và sau đó vì tự do của Âu Châu, Ông đã lãnh đạo Mỹ chiến thắng cuộc chiến thế giới thứ nhứt này để bắt đầu đưa Mỹ đóng vai trò siêu cường của thế giới.
TT Franklin D. Roosevelt, non một năm sau Trân Châu Cảng bị tấn công và Mỹ tham gia Đệ Nhị Thế Chiến chống độc tài Nazi và Phắc xít, trong bài diễn văn nổi tiếng "Bốn Tự do" vào ngày 6 tháng 1 năm 1946. " Tự do là không khí Mỹ thở... Chúng ta mong mỏi một thế giới xây dựng trên 4 tự do.. tư do ngôn luận và phát biểu... tư do tín ngưỡng.. tự do từ ý muốn.. tự do khỏi lo sợ." Và Quốc Hội và người dân Mỹ dành cho Ông một đặc ân duy nhứt trong lịch sử Mỹ, phục vụ hơn hai nhiệm kỳ để chiến thăùng độc tài Đức Quốc Xã và Phát xít.
Còn không xa đây lắm, TT Ronald Reagan, trong bài diễn văn nhậm chức Thống Đốc Tiểu bang California năm 1967, nghĩ xa hơn cây Cầu Golden Gate, khi nói, "Tư do là một thứ mong manh ... Không phải do thừa kế mà chúng ta có. Phải chiến đấu và bảo vệ hằng cửu bởi mỗi một thế hệ mới còn vì nó chỉ đến một lần cho một dân tộc. Những người có tự do và mất nó, không bao giờ hiểu nó." Niềm tin vào tự do và ý thức phải bảo vệ tư do đó đã giúp TT Reagan giật sập Bức Tường Ô Nhục CS ở Bá Linh, và làm Liên xô độc tài đảng trị toàn diện đột quị sụp đổ trong cuộc chạy đua võ trang và cuộc chiến giữa các vìø sao.
TT Bush đương kim tổng thống Mỹ cũng có niềm tin sắt đá vào tự do, đã biểu lộ qua bài diễn văn nhậm chức và tình trạng liên bang. Đa số người Mỹ và các nước trên thế giới xem là tuyên ngôn tư do của TT Bush. Ông gây nhiều bực bội cho các chế độ độc tài từ quân phiệt như Miến Điện, đến độc tài đảng trị toàn diện như CS Bắc Hàn, Trung Cộng và CS Hà nội. Nhưng TT Bush không cô đơn. Những vị tổng thống Mỹ tiền nhiệm lấy mạng sống và sự nghiệp chánh trị của mình để làm một cái gì đó cho tự do, được Tổ Quốc ghi ơn và người dân ngưỡng mộ trong Đền Danh Nhân Hoa Kỳ đồng quan điểm với Ông. Và người Mỹ chánh trực cũng như các dân tộc bị áp bức sẽ ủng hộ Ông.