SAIGON -- Nhìn lại một năm 2014, kinh tế Việt Nam nổi bật ở điểm: Xuất cảng năm 2014 tăng nhưng giá trị gia tăng vẫn thấp.
Bản tin từ thông tấn nhà nước TTXVN nói rằng với tổng kim ngạch đạt 150 tỷ USD, xuất cảng năm 2014 tiếp tục giữ được đà xuất siêu năm thứ ba liên tiếp và góp những “gam màu tươi sáng” vào bức tranh kinh tế chung của cả nước.
Tuy nhiên, ngưỡng cửa Năm mới 2015 mở ra vẫn còn đó nhiều thách thức.
Thông tấn TTXVN đã phỏng vấn tiến sỹ Lê Quốc Phương, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại và ghi nhận ý kiến sau từ ông Phương, trích:
“...trong điều kiện kinh tế thế giới khá ảm đạm và kinh tế Việt Nam còn nhiều khó khăn, xuất cảng năm 2014 vẫn đạt mức tăng trưởng 12-13% là một kết quả đáng ghi nhận.
...hoạt động xuất nhập cảng năm 2014 đã tác động tích cực đến các chỉ số kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Với mức tăng 14% so với năm ngoái, xuất cảng chính là một động lực quan trọng, góp phần cải thiện tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2014 với dự kiến đạt 5,8-5,9%.
Năm 2014, Việt Nam đạt xuất siêu 2 tỷ USD và kết quả này không chỉ giúp cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán của Việt Nam mà còn góp phần tăng dự trữ ngoại hối quốc gia lên mức cao nhất từ trước đến nay (hiện đạt trên 35 tỷ USD).
Thêm vào đó, xuất siêu còn giúp khắc phục tình trạng tỷ giá biến động mạnh diễn ra trong nhiều năm trước đây khi cầu ngoại tệ vượt cung gây bởi tình trạng nhập siêu. Nhờ vậy, mục tiêu ổn định tỷ giá, kiềm chế lạm phát đã được hiện thực hóa.
Theo tôi, mặc dù kim ngạch xuất cảng cao nhưng giá trị gia tăng vẫn thấp. Theo đó, Việt Nam vẫn chủ yếu xuất thô nông lâm thủy sản và nhiên liệu-khoáng sản nên dù có sản lượng cao nhưng giá trị gia tăng lại không cao. Trong khi đó, nhóm hàng công nghiệp chế biến-chế tạo như điện thọai, điện tử, dệt may, giày dép hiện chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng xuất cảng nhưng vẫn hầu hết là gia công lắp ráp, do vậy giá trị gia tăng cũng thấp.
Ở khía cạnh thứ hai, tăng trưởng xuất cảng chủ yếu vẫn nhờ vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI bởi riêng khối này đã chiếm với tỷ trọng trên 2/3 tổng kim ngạch xuất cảng cả nước. Trong khi đó, khối doanh nghiệp nội địa chỉ chiếm tỷ trọng chưa đến 1/3.
Tương tự như vậy, xuất siêu đạt được cũng do khối doanh nghiệp FDI, trong khi các doanh nghiệp trong nước vẫn đang nhập siêu lớn. Điều đó cho thấy các doanh nghiệp trong nước đang ngày càng yếu thế trước các doanh nghiệp FDI xét cả về tỷ trọng trong xuất cảng, tốc độ tăng trưởng xuất cảng và cán cân thương mại.
Xu hướng này đã bắt đầu bộc lộ từ các năm trước, song ngày càng thể hiện rõ trong bối cảnh các doanh nghiệp nội địa đang phải đối mặt với những khó khăn lớn.
Thứ ba, mức độ phụ thuộc quá lớn vào một số ít thị trường xuất nhập cảng. Năm thị trường xuất cảng lớn nhất (Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc) chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất cảng của Việt Nam, trong khi sáu thị trường nhập cảng lớn nhất (Trung Quốc, ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ) chiếm 80% tổng kim ngạch nhập cảng của Việt Nam.
Đặc biệt, sự phụ thuộc vào Trung Quốc rất lớn: nhập cảng từ Trung Quốc chiếm gần 30 % toàn bộ nhập cảng của Việt Nam. Sự phụ thuộc quá lớn vào một số ít thị trường xuất nhập cảng dễ dẫn đến rủi ro khi có biến động bất lợi tại các thị trường đó.”
Đặc biệt, Ông Lê Quốc Phương đề nghị giải pháp học theo kinh nghiệm ở một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan -- trong đó, theo ông, “các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập ngành công nghiệp phụ trợ. Do vậy, xây dựng được chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia mạnh vào lĩnh vực này sẽ tạo ra động lực quan trọng để phát triển công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam.”
Bản tin từ thông tấn nhà nước TTXVN nói rằng với tổng kim ngạch đạt 150 tỷ USD, xuất cảng năm 2014 tiếp tục giữ được đà xuất siêu năm thứ ba liên tiếp và góp những “gam màu tươi sáng” vào bức tranh kinh tế chung của cả nước.
Tuy nhiên, ngưỡng cửa Năm mới 2015 mở ra vẫn còn đó nhiều thách thức.
Thông tấn TTXVN đã phỏng vấn tiến sỹ Lê Quốc Phương, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại và ghi nhận ý kiến sau từ ông Phương, trích:
“...trong điều kiện kinh tế thế giới khá ảm đạm và kinh tế Việt Nam còn nhiều khó khăn, xuất cảng năm 2014 vẫn đạt mức tăng trưởng 12-13% là một kết quả đáng ghi nhận.
...hoạt động xuất nhập cảng năm 2014 đã tác động tích cực đến các chỉ số kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Với mức tăng 14% so với năm ngoái, xuất cảng chính là một động lực quan trọng, góp phần cải thiện tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2014 với dự kiến đạt 5,8-5,9%.
Năm 2014, Việt Nam đạt xuất siêu 2 tỷ USD và kết quả này không chỉ giúp cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán của Việt Nam mà còn góp phần tăng dự trữ ngoại hối quốc gia lên mức cao nhất từ trước đến nay (hiện đạt trên 35 tỷ USD).
Thêm vào đó, xuất siêu còn giúp khắc phục tình trạng tỷ giá biến động mạnh diễn ra trong nhiều năm trước đây khi cầu ngoại tệ vượt cung gây bởi tình trạng nhập siêu. Nhờ vậy, mục tiêu ổn định tỷ giá, kiềm chế lạm phát đã được hiện thực hóa.
Theo tôi, mặc dù kim ngạch xuất cảng cao nhưng giá trị gia tăng vẫn thấp. Theo đó, Việt Nam vẫn chủ yếu xuất thô nông lâm thủy sản và nhiên liệu-khoáng sản nên dù có sản lượng cao nhưng giá trị gia tăng lại không cao. Trong khi đó, nhóm hàng công nghiệp chế biến-chế tạo như điện thọai, điện tử, dệt may, giày dép hiện chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng xuất cảng nhưng vẫn hầu hết là gia công lắp ráp, do vậy giá trị gia tăng cũng thấp.
Ở khía cạnh thứ hai, tăng trưởng xuất cảng chủ yếu vẫn nhờ vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI bởi riêng khối này đã chiếm với tỷ trọng trên 2/3 tổng kim ngạch xuất cảng cả nước. Trong khi đó, khối doanh nghiệp nội địa chỉ chiếm tỷ trọng chưa đến 1/3.
Tương tự như vậy, xuất siêu đạt được cũng do khối doanh nghiệp FDI, trong khi các doanh nghiệp trong nước vẫn đang nhập siêu lớn. Điều đó cho thấy các doanh nghiệp trong nước đang ngày càng yếu thế trước các doanh nghiệp FDI xét cả về tỷ trọng trong xuất cảng, tốc độ tăng trưởng xuất cảng và cán cân thương mại.
Xu hướng này đã bắt đầu bộc lộ từ các năm trước, song ngày càng thể hiện rõ trong bối cảnh các doanh nghiệp nội địa đang phải đối mặt với những khó khăn lớn.
Thứ ba, mức độ phụ thuộc quá lớn vào một số ít thị trường xuất nhập cảng. Năm thị trường xuất cảng lớn nhất (Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc) chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất cảng của Việt Nam, trong khi sáu thị trường nhập cảng lớn nhất (Trung Quốc, ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Mỹ) chiếm 80% tổng kim ngạch nhập cảng của Việt Nam.
Đặc biệt, sự phụ thuộc vào Trung Quốc rất lớn: nhập cảng từ Trung Quốc chiếm gần 30 % toàn bộ nhập cảng của Việt Nam. Sự phụ thuộc quá lớn vào một số ít thị trường xuất nhập cảng dễ dẫn đến rủi ro khi có biến động bất lợi tại các thị trường đó.”
Đặc biệt, Ông Lê Quốc Phương đề nghị giải pháp học theo kinh nghiệm ở một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan -- trong đó, theo ông, “các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập ngành công nghiệp phụ trợ. Do vậy, xây dựng được chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia mạnh vào lĩnh vực này sẽ tạo ra động lực quan trọng để phát triển công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam.”
Gửi ý kiến của bạn