Hôm nay,  

Quê Hương Và Lưu Đày

01/02/201500:58:00(Xem: 8464)

 

QUÊ HƯƠNG VÀ LƯU ĐÀY

          

Đào Như

 

                (Tên của các nhân vật đều là hư cấu. Nếu có sự trùng hợp xin đừng ngộ nhận)

                                                                                                                           -Đào Như

blank        
                                                          ***

Cuối năm 2004 tôi về thăm nhà. Lúc ấy anh tôi 73 tuổi. Anh trông yếu hẳn đi. Tóc anh bạc trắng. Xót cho anh, tôi nói:

    - Mấy năm đi tù cải tạo bị ngược đãi, tóc anh bạc phơ.

    - Đi tù cải tạo là tai-trời-ách-nước mà! Người miền Nam, bên này vĩ tuyến 17, sau 1975, ai mà không đi ‘tù cải tạo’, kẻ đó không phải là người Miền Nam. Không phải tại ngược đãi gì đâu. Tóc anh bạc, người anh gầy, vì anh giống má. Nói xong anh cười. Thấy tôi đang nhìn có vẻ quan sát nhà cửa của anh, vừa chỉ tay chung quanh, anh vừa nói:

    - Tất cả là do tiền của mấy đứa con ở Florida gửi về, tụi nó yêu cầu tân trang lại nhà cửa và xây cất thêm phòng ốc để có chỗ cho tụi nó ở mỗi khi dẫn vợ con về thăm nhà. Vừa ngắm nghía bức tranh “Bến Hồng Quảng”của Nguyễn Gia Trí đang treo trên tường, anh vừa nói:

     - Đó chỉ là phiên bản,immitation. Kỹ thuật ấn loát của họ bây giờ khéo đấy chứ? Chú còn nhớ cụ Trí? Cụ Trí thuộc Quốc Dân Đảng, có một thời sống lưu vong bên Trung quốc với NguyễnTường Tam, Nguyễn Tường Long, Nguyễn hải Thần...Sau 54, chạy nạn Cộng sản, cụ Trí di cư vào Nam, có cả người em trai của cụ nữa, sinh sống tại Saigòn. Ấy thế, mà mấy ông Cách mạng ‘gan’ thật, dám kéo cụ Trí về phía họ. Dám bảo cụ Trí là người của cách mạng, và họ ‘quốc hữu hóa’ các bức tranh của cụ Trí. Hay thật. Họ đâu có tước đoạt gì cụ Trí. Tài-sản-của-quốc-gia mà lại…

      - Em chưa hề gặp cụ Trí ở Sàigòn, tôi nói, nhưng em biết cụ Trí sau khi di cư vào Nam, cụ có vẽ cho nhà thờ Mai Khôi, trong khung viên của Cercle Renaissance của em ở, một bức tranh rất đặc biệt: Chân Dung Đức Mẹ. Cụ Trí vẽ Đức Mẹ mặc áo tứ thân, đứng trên tòa sen. Bức tranh  thật ấn tượng.

 

      Những lúc ấy anh em chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều, nhưng anh tôi tuyệt nhiên không nói gì đến thân phận bèo bọt của anh trong suốt những năm tháng sau ngày Thống nhất. Chị dâu của tôi có vẻ ấm ức, muốn anh nói cho tôi nghe những chịu đựng gian khổ của anh. Anh tôi chỉ mỉm cười:

      - Không ai có thể chia sẻ trọn vẹn sự đau đớn của người khác được cả. Và cũng không có ai có thể nói hết được sư đau đớn của riêng mình. Họa chăng chỉ có thuyền mới hiểu được biển. Thuyền và biển đều câm nín cả. Đạo khả đạo phi thường đạo…Nói xong, anh cười phá lên.

     Đến buổi ăn trưa, tôi có cảm tưởng anh chị thiết đải vợ chồng tôi, vì bữa ăn tại gia đình nhưng thịnh soạn. Chị dâu tôi nấu cơm gà Phanrang thơm lừng. Có mắm gừng. Có bia Heineken. Hình như đọc được ý nghĩ của tôi, anh tôi bảo:

   - Dù sao, có chú thím về anh chị cũng phải…Nhưng sư thật thì bữa ăn hằng ngày của vợ chồng tôi được cải thiện rất nhiều trong 6 năm qua, kể từ ngày các con ở Mỹ ăn nên làm ra, tụi nó gửi tiền về… Anh nhìn vợ tôi, anh hỏi:

     - Sau hơn 20 năm ở Mỹ, hôm nay lần đầu tiên thím ăn cơm trưa, chắc thím có cảm giác lạ lắm phải không? Thú thật với thím, tôi cũng vậy, hồi năm 62, trở về nhà, sau hơn một năm ở Mỹ, tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy mình ngồi lại ăn cơm trưa với vợ con, với gia đình như người Mỹ ăn dinner vậy.

      Câu chuyện anh vừa nói làm tôi nhớ lại anh là một sĩ quan Không Quân, đã có hai năm sống ở Mỹ: 1961, và 1970. Ấy thế mà năm 1975, anh nhất định không đi. Anh yêu nước biết dường nào.

     Chị dâu tôi bảo:

     - Cầm đũa mời hai em ăn đi ông, quá 12 giờ rồi…

     - À, mời chú thím… mời bà, anh tôi bảo.

     Vì thương anh tôi, chị dâu tôi muốn vợ chồng tôi, nhất là tôi, (vì anh chị tôi nuôi tôi từ hồi tôi còn nhỏ) phải chia sẻ những gian khổ của anh tôi trong hơn 20 năm qua sống dưới Chuyên Chính Vô Sản, chị nói trong ngậm ngùi và cả nước mắt nữa:

     - Khi ông ấy được ‘lệnh tha’, ở trong trại tù, ăn đói, ông ốm nhôm, gió xô cũng ngã. Bữa cơm đầu tiên mẹ con tôi cũng nấu cơm gà cho ông ấy. Tay ông cầm đũa gắp miếng thịt gà mà cứ run run, ông đưa vào miệng ngậm một hồi lâu mà nước mắt ông ràng rụa ông ậm ực:“Ùm! Gần 10 năm!..”

    Anh tôi đưa tay vuốt lưng chị dâu tôi, vỗ về:

      - Thôi bà, đó là quá khứ. Quá khứ của nhầm lẫn…Chú thím, cũng như nhà tôi, nên quên cái thời đó để vui sống. Bây giờ là thời mở cửa, thời cởi trói, đổi mới rồi. Thời nào chúng ta sống theo thời đó cho nó ổn. Đâu có phải chỉ có những người tù cải tạo như chúng tôi là sống khổ, đói khát. Việt Minh họ cũng vậy. Tháng 10/1955 bộ đội Việt Minh về tiếp thu thủ đô Hà nội, trong một bữa tiệc khỏan đải, cụ Phan Khôi cầm đũa chỉ vào đĩa thịt gà nói một câu cay đắng:“ Chín năm nay, tao mới thấy mặt mày”! Thời nào cũng vậy, người trí thức sống dưới Chuyên Chính Vô Sản…cũng như chúng ta hôm nay thôi. Anh tôi bắt qua chuyện khác, anh hỏi tôi:

       - Chú còn nhớ Trung tá Hạnh, phi công F105? Anh chàng hồi còn Trung úy, có một thời mê Nguyệt ‘Mắt Quạ’, tiệm ‘Phát Quang’, trên phố Độc lập, Nhatrang.

      Thật sự tôi không nhớ được anh ấy, nhưng tôi cũng phài ẩm ờ. Chị dâu tôi bảo:

       - Lâu quá, chắc chú quên rồi, chị nói tiếp:

       - Vợ chồng tôi mới ra Hà nội tháng vừa rồi, để đi đám ma anh Hạnh. Trung tá Hạnh và gia đình thoát đi Mỹ vào ngày cuối cùng 29/4/75. Đến Mỹ anh làm việc cho hãng máy bay Lockheed tại Cali. Chị, vợ anh Hạnh, làm programmer cho American Express. Hai người con ăn học thành danh, tất cả theo nghề Business. Ai cũng có nhà cửa cơ ngơi sống thoải mái. Anh ấy cũng thường xuyên thư từ với vợ chồng tôi. Năm 2000, anh ấy đúng 68 tuổi, hãng Lockheed cho anh ấy về hưu. Chắc chú còn nhớ, anh ấy là người Bắc, di cư vào Nhatrang, nhà anh ấy bên cạnh nhà anh chị, hồi còn ở đường Prince Cảnh. Anh Hạnh có người em trai, đại tá ở phía bên kia, đã từng tham chiến trận Điện Biên. Sau bao nhiêu khó khăn, rào cản, mãi đến năm 1996, hai anh em mới bắt được liên lạc với nhau, và anh Hạnh mới hay bà cụ mẹ anh còn sống. Năm 1997, anh chị Hạnh về thăm bà cụ, và gia đình người em tại Hà nội. Anh Chi Hạnh giúp đỡ người em một số tiền để xây một cái nhà khá lớn và dành cho bà cụ một phòng, và anh chị cấp dưỡng cho bà cụ đều đặn hàng năm. Năm 2001, bất ngờ chị Hạnh qua đời vì tai biến đột quị. Từ khi người bạn đời vĩnh viễn ra đi, anh Hạnh cảm thấy hụt hẳn. Con cái thì ở xa, ai cũng thành gia thất. Anh ấy cũng

có cháu ngoại cháu nội. Người con gái thì ở Boston. Cậu con trai thì ở New York.  Sau khi tham

khảo với các con và với người em trai ở Hà nội, năm 2002 anh quyết định hồi hương về sống gần với mẹ ngày nào mừng ngày ấy và hy vọng đến khi anh ấy qua đời cũng sẽ được an táng nơi quê nhà. Anh về Hà nội được 9 tháng thì bà cụ mất. Anh vẫn tiếp tục ở với người em trai. Hai người trông vẫn còn phong độ, đi du lịch đó đây.  Mới đây, năm ngoái hai anh em có ghé thăm vợ chồng tôi, ăn ở đây gần 1 tuần, sau đó anh của chú và hai ông đó đi du lịch với nhau, vào Nam, ra Bắc cả tháng trời.. Nói tới đây chị nhìn anh như có vẻ trách móc. Anh tôi liền bảo:

    - Đâu cả tháng, để xem nào, hình như có 25 hay 26 ngày…Nhưng đầu tháng vừa rồi anh Hạnh có gọi tôi, cho hay anh nghe trong người hơi khó ở. Nghe vậy tôi nghĩ chắc không đến nỗi nào. Không ngờ năm ngày sau, người em trai, đại tá Phúc gọi cho tôi hay là anh Hanh đang hấp hối, muốn gặp tôi gắp. Hai vợ chồng tôi bay ra liền, chỉ còn kịp để vuốt mắt anh ấy.

    Nói đến đây, anh tôi gục đầu trên hai bàn tay. Tôi nghe anh tôi thều thào:Trung tá Hạnh chết cô đơn quá, không có vợ con bên cạnh, chỉ có quê hương…Tôi nghe chị tôi lập lại với giọng hờn dỗi hai tiếng “quê hương”, và chị nói:

     - Tôi nghiệp anh Hạnh lắm chú thím. Chú thím có biết không? Mai táng anh Hạnh cũng gặp nhiều khó khăn với chế-độ lắm, mặc dù em anh Hạnh, nguyên Đại tá, đã từng tham chiến Điện Biên, đi B và cũng tham chiến cả chiến trường Kampuchia nữa. Họ cứ bảo anh Hạnh là ngoại kiều, họ đòi hỏi hạch sách đủ điều, đủ mọi thứ giấy tờ. Khó khăn lắm, tốn kém lắm, 4, 5 ngày sau, khi nắp quan tài gần bậc ra vì thi thể anh Hạnh bắt đầu sình rữa, mới lấy được giấy báo tử vì có giấy báo tử mới có thể chôn được ở nghĩa trang gia đình gần Hà Nội, bằng không thì họ không cho chôn. Ôi mấy ông cộng sản, hành hạ người dân, đến chết vẫn còn hành hạ.

     - Nhưng bà biết, anh tôi nói, trước khi vĩnh viễn nhấm mắt, anh Hạnh có nói với anh Phúc là anh không bao giờ hối tiếc đã trở về Hà nội mặc dù có nhiều bạn bè ở Mỹ nghĩ là anh sai lầm, anh đã chọn quê hương làm chốn lưu đày. Anh đã thỏa mãn được giấc mơ của đời anh, là được chăm sóc kề cận mẹ anh trong tuổi bóng xế của bà và điều thứ hai nữa là anh được chết và chôn tại Hà nội.

      - Ôi, sao ông còn lý tưởng quá, chị dâu tôi bảo. Ông bị mê hoặc bởi cụm từ: “Quê hương thần thoại”, vì thế ngày 24/4/75 cả gia đình vợ chồng con cái đã lên ngồi trên chiếc DC 10, tại căn cứ Phi Long, Nhatrang, sắp sửa cất cánh, ông nhất định kéo xuống hết và ông bảo với các con ở lại với đất nước, Việt Nam dù sao đi nữa vẫn là quê hương, vẫn là thiên đàn. Sau ngày 30/4/75 ông khăn gói trình diện đi tù cải tạo. Ông còn nhớ hay ông đã quên rồi ông? Sau câu nói, mặt chị dâu tôi sa sầm nước mắt. Anh tôi nhìn chị tôi yên lặng, không nói được một lời… Lặng thinh một hồi, anh tôi bảo:

      - Có hai em về thăm…sau hơn 20 năm xa cách. Còn chuyện đó cũng đả gần 30 năm rồi. Tôi xin bà hiểu cho, ai cũng một lần vấp ngã.  Rồi anh quay lại nói với hai vợ chồng tôi:

       - Hôm nay là 21 tháng Chạp! Chỉ còn không đầy mười ngày nữa là đến Tết ta.

Chị dâu tôi bảo:

       - Vậy Chú Thím ở lại đây ăn Tết với vợ chồng tôi, sau Tết rồi hãy về Mỹ.

Chúng tôi ở lại, chia sẻ với anh chị những ngày cuối năm. Có những buổi tối, anh em tôi mang mùng mền ngủ với nhau một phòng riêng. Những câu chuyện trao đổi những lúc tàn canh, tôi nghe giọng nói anh tôi hiu hắt buồn. Nhiều người bạn của anh đã về vĩnh cửu. Tinh thần anh có vẻ suy sụp sau khi chia tay với anh Hạnh, người bạn thân cuối đời anh. Bạn bè anh ở lại với đất nước, không còn mấy người sống sót. Sau khi được ‘lệnh tha’, một số qua Mỹ vào những năm 90 theo diện Từ Thiện (Humanitarian Operration: H.O.). Một số giống anh, từ chối diện ‘từ thiện’ (H.O). Họ ở lại, chết dần, chết mòn trong cảnh cơ hàn, bịnh tật, vì họ bị hành hạ quá nhiều lúc đi tù cải tạo. Anh cảm thấy cô đơn. Có những lúc anh nói như trong mơ “Anh không biết tính làm sao đây? À, hay là anh chị sẽ ‘move’ qua Mỹ ở, sống chết hôm sớm có bạn bè, có con cháu, có các em. Lặng thinh mộ hồi lâu, tôi nghe anh uốn mình trăn trở, anh tự trách mình, như vậy anh chị lại sẽ làm một hành trình ngược chiều với anh Hạnh sao?..

     Lúc ấy ngoài hiên nhà trời đang hừng Đông. Tôi giật mình, lâu lắm tôi mới nghe lại tiếng gà gáy sáng…/.

       

Oct-2004

Oak park, Illinois USA

Đào Như

thetrongdao2000@yahoo.com

 

 

 

 

 

 

 


.
,

Ý kiến bạn đọc
02/02/201521:48:33
Khách
Theo tôi nghĩ, cái ông Hạnh nào đó. Vì năm 1975 ông chạy kip , không ở lại nếm mùi " cải tạo" nên mới về sống được ở Hanoi. Hanoi có còn như xưa hay không tuỳ theo nhãn quan, cảm quan của mỗi con người. Tôi thì là người sanh đẻ ở Saigon, nhớ Saigon lắm, nhưng Saigon cung đã thay đổi nhiều lắm rồi, nên tôi đành nhận nơi này làm quê hương thứ hai và cũng thấy an vui đầm ấm hơn Saigon hiện tại. Sống ở đâu là sự chọn lựa của mỗi cá nhân mà thôi. Vấn để họ có an vui ở nơi chốn đó hay không.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Thông thường khi nghe hai chữ “cô đơn” chúng ta liên tưởng đến trạng thái tinh thần yếm thế, tâm tư buồn bã, ngày tháng chán chường, thậm chí, cuộc đời trống rỗng. Có lẽ, vì ý nghĩa từ điển của từ vựng này; có lẽ, vì ảnh hưởng văn chương nghệ thuật; có lẽ vì chúng ta đã từ lâu tin như thế, mà không bao giờ đặt một nghi vấn nào. Đây là định nghĩa của “cô đơn” qua Bách thư toàn khoa Wikipedia: “Cô đơn là một trạng thái cảm xúc phức tạp và thường gây khó chịu, đáp ứng lại với sự cách ly xã hội. Cô đơn thường bao gồm cảm giác lo lắng về sự thiếu kết hợp hay thiếu giao tiếp với những cá nhân khác, cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, người ta có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi xung quanh có nhiều người. Nguyên nhân của sự cô đơn rất đa dạng, bao gồm các vấn đề về xã hội, tâm thần, tình cảm và các yếu tố thể chất.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.