Tôi làm quen với Sài Gòn là qua ông. Cái trò ngồi quán nhâm nhi ly hồng trà, ngóng chờ hồn ma cũ, trong khi tương lai đang đợi ở một ngã tư nào đó, và chiến tranh thì đang đợi ở quân trường, là do ông, phần nào.
Ông già tôi khi còn sống, đặt cho tôi một biệt hiệu: thằng Mõ Phố. Ông làm nghề dậy hoÏc, cứ bị đổi nhiệm sở hoài. Nghe nói Tây không ưa ông. Thằng con, ngay những giờ phút đầu tiên đến đất lạ đã lân la làm quen người và cảnh. Chưa kịp làm quen người bố, ông đã bị đảng phái thủ tiêu.
Mõ Phố vào Nam, việc đầu tiên, mua một tấm bản đồ thành phố Sài Gòn, rồi ‘khốn khổ khốn naÏn’ vì nó. Chả là, thằng nhỏ tin theo bản đồ, lần theo đường chỉ trên giấy, đụng ngay một đồn Bình Xuyên. Thành phố những ngày đầu di cư, bản đồ nào ‘update’ cho nổi! Người lính gác, chắc chỉ muốn cho thằng nhỏ Bắc-kỳ một bài học, bắt đứng suốt buổi; mỗi lần buồn buồn, anh lên cò súng lách cách, hăm: Tao bắn bỏ mày! Anh ta làm sao biết, thằng nhỏ bị gắn khằn trong trí tưởng, hình ảnh một ông bố bị cột đá bỏ sông.
Truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc lúc đó rất ăn khách, và những tờ nhật báo tại Sài Gòn thường in kèm như phụ trang. BaÏn mua tờ báo, mở ra, truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc là một ‘cahier’ khổ nhỏ kẹp ở giữa.
Nhớ đến ông, tôi nhớ đến một người viết khác, ông anh rể của tôi, Nguyễn Hoạt.
Nguyễn Hoạt thuở mới vô cũng ham viết tiểu thuyết về miền nam. Cuốn Trăng Nước Đồng Nai của ông kể chuyện kiếm cơm miền nam bằng nghề dậy học ở Biên Hòa. Ông quá mê thằng nhỏ xe lô (location) mời chào khách: Gòa không, Gòa không" (Hòa không, Hòa không") Ông tả những cô gái miền nam tự nhiên đến độ mặc ‘underwear’ (đồ lót) leo cây, hái trái!
Ông chú Th. của tôi cười ngất, buông một câu: Bộâ nó tưởng gái miền nam ‘dễ dzô’ lắm sao" Bà thím tôi ngồi kế bên cười tủm tỉm. Hai người sắp thành ba người, mới lo làm đám cưới! Nhân đó, ông hỏi tôi thường đọc ai, tôi nói: Cháu mê Bình Nguyên Lộc. Ông gật gù, trúng ý. Trên bàn là tờ báo hàng ngày, với truyện ngắn mới nhất của Bình Nguyên Lộc.
Ông chú này, tôi đã nhắc tới, nhân đi tìm ‘một cái tên’ cho một cuộc chiến. Gọi là chú, vì cùng học với ông già. Ông thi rớt, bỏ vào Sài Gòn lập nghiệp từ khi còn ‘nước Nam-kỳ’, tân thế giới của những chàng trai xứ Bắc. Bà thím gốc xa xưa Tiều, rất hiền. Bà kể kỷ niệm hồi mới lấy chồng. Ổng nói, nếu ngày đó, tôi ‘hỏng’ chịu cưới, bà tính sao" Đành ôm bầu, đẻ con, chịu làm gái ngoan (bên đây kêu là single mom) chứ làm sao giờ! Kỷ niệm dù sao cũng vui. Buồn: những ngày làm ăn khá giả, khi chưa xẩy vụ di cư, bà sợ nhất cảnh đếm tiền mỗi lần ông đưa về. Sau bà nghĩ ra một cách thật giản dị: dùng đấu, để đong, như đong gaÏo!
Là một thương gia giầu có nhưng có thể do bỏ miền bắc, ông lại càng tin vào một mùa Thu mà ông đã không có dịp được thưởng thức khí hậu. Mãi sau này, ân hận, nhưng cũng may, mất trước khi mất miền nam, không phải chứng kiến cảnh kiểm kê tài sản.
Cô con gái thứ của ông là mối tình đầu của tôi.
Tôi mê cô cùng lúc mê Bình Nguyên Lộc. Thương thằng nhỏ con người bạn học, ông kêu tôi về làm trợ giáo cho mấy đứa con ông. Không hiểu ông có một vầng trăng thề nào không, khi rời xứ Bắc, vì mấy cô con gái đều mang tên người đẹp cung Quảng. ‘Đệ nhị tiểu thư’ được cưng nhất, nhưng không vì vậy mà bớt sợ bố. Ông là một ‘hung thần’ trong gia đình.
Lần cuối, tôi tới thăm nhưng ‘vô ý’ mang luôn đôi dép dính bùn vô nhà. Cô hoảng quá la lớn: Anh để dép bên ngoài! Tôi quay ra, dép theo luôn. Mãi sau này, khá trộng tuổi, cô mới lấy chồng. Bây giờ hình như hai vợ chồng ở Úc. Không hiểu khi chọn tôi làm ‘trợ giáo’ cho mấy đứa nhỏ, ngoài chuyện thương đứa nhỏ mồ côi, ông chú tôi có bị ảnh hưởng Bình Nguyên Lộc hay không"
Nếu miền nam của Sơn Nam là một miệt vườn, hoặc trước thuở miệt vườn, một hình bóng cũ, miền nam trong Bình Nguyên Lộc là cảnh nhập nhằng kẻ chợ, người quê. Những nhân vật của ông cũng nửa quê nửa tỉnh. Đây là lý do, theo tôi, dân Sài Gòn rất mê ông, nhất là những độc giả ‘nhựt trình’. Trong tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc đã manh nha một Sài Gòn sắp sửa biến mất, như một miền nam biến thành huyền thoại, ở Sơn Nam. Người ta tự hỏi mấy cô gái trong Đò DoÏc, lo chạy giặc Tây giạt về một xóm quê, suốt ngày lóng ngóng không biết làm gì, suốt đời chờ đợi một người lái xem heo, hoÏ sẽ sử sự ra sao, sau này, khi quân đội Mỹ và đồng minh đổ xô tới.
Nhận định văn ông, ở một số người viết:
‘... không thành công ở truyện dài... đầy rẫy đối thoaÏi, vết tích còn lại của những tiểu thuyết đăng báo từng kỳ... nhưng thái độ sống đã là tấm gương sáng cho tôi’ (Nguyễn Văn Sâm).
‘....xét về toàn thể thì đến nay một thành công của Đò DoÏc (có kết cấu linh động, kỹ thuật song suốt, xây dựng tâm lý ý nhị, hành văn trôi chẩy, đối thoaÏi duyên dáng hơn cả) vẫn không đủ sức để cứu vãn giá trị cho sự nghiệp văn chương thiên về lượng hơn về phẩm đó... vốn dĩ ông đã tỏ ra khá xem nhẹ cái công phu viết văn rồi. (Cao Huy Khanh).
Trong lời giới thiệu Tuyển Tập Bình Nguyên Lộc (nhà xuất bản An Tiêm, 1999), Võ Phiến trân trọng những bận tâm ‘khác’ (ngoài cõi văn"): Đồng Nai là bận tâm của một dòng họ, Phù Sa là bận tâm của cả miền Nam... mối bận tâm thứ ba [nguồn gốc Việt] bao trùm cả dân tộc. Ông gọÏi Bình Nguyên Lộc, một nhân sĩ trong làng văn.
Những nhận điÏnh trên cho thấy, Bình Nguyên Lộc không được coi như là ‘một nhà văn’.
Ở đây, có nhiều vấn đề: hoặc thể văn đối thoaÏi là một tiền-văn chương. Hoặc nó không đủ lực để chuyên chở những rắc rối đa đoan của tâm lý con người, sự chuyển biến của một xã hội, như xã hội miền nam trước cơn bão chiến tranh. Hoặc tác giả như Bình Nguyên Lộc không đủ khả năng làm bật nó ra, nhưng ở trong ông vẫn bàng bạc một nỗi lo: xã hội xuống cấp, ‘về chiều’ ‘đồi trụy’, và đây đúng là những bận tâm của một người viết, khi họ chọn lựa hình thức văn chương: tiểu thuyết. Như Georges Lukacs định nghĩa: tiểu thuyết, một thế giới về chiều, nhân vật chính, một anh chàng ù lì (passif), do ý thức quá rộng, mà thế giới về chiều quá chật không làm sao thỏa mãn. Điều này giải thích taÏi sao Bình Nguyên Lộc thành công trong những truyện ngắn: Đây là nơi trú ẩn của ông, trong những hồn ma cũ, trong hình bóng một cô đào hát cậu bé đã một thời mê mệt (Tình Thơ Dại), trong nỗi Thèm Mùi Đất... Nói một cách khác, Bình Nguyên Lộc đã bắt được cái ‘thần’ của một miền đất, vào thời điểm đang manh nha một sự thay đổi triệt để, thay đổi như thế nào ông không thể biết, và cũng không đủ kiên nhẫn để chuyển tải nó vào trong một truyện dài. Thí dụ như anh chàng ký giả nhựt trình trong Hồn Ma Cũ muốn níu kéo quá khứ: chàng đã ghiền không khí ở đây, ghiền cả thời gian nữa... cho đến cái dơ bẩn của tiệm này chàng cũng yêu... nhưng đúng ra là chàng đang rình ‘cái thần’ của một miền đất... ‘nó đây rồi’: ‘Thình lình Kỳ ngây người ra: chàng vừa thấy người cha đứa bé rót caØ-phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa mà uống. Cảnh này, chàng đã thấy rồi... trời ơi... lâu lắm... những hai mươi năm về trước...’
Cảnh này, thằng bé Bắc-kỳ ngày xưa cũng đã thấy rồi, khi miền nam đã đổi chủ.
Bữa đó, hai vợ chồng từ rẫy lên chợ (chợ Cai Lậy). Bà vợ xà ngay vô một gánh bún, hay cháo lòng heo trong lúc anh chồng xớn xác kiếm một ly ‘cà phe’ túi. Khi quay laÏi anh thấy bà vợ đang thong thả lật phía bên trong chiếc gấu quần, hài lòng lau miệng...
Trời ơi, nó đây rồi, bấy lâu nay anh tìm kiếm hoài lúc đó mới hiểu ra, tình yêu người yêu đất nghĩa là gì …