Hôm nay,  

Oppenheimer, những người Mỹ cộng sản và Đại học Berkeley

30/03/202408:11:00(Xem: 934)
Tạp ghi

BuiVanPhu_2024_0316_Oppenheimer_H01_Campus_Campanile
Cảnh sân trường Đại học Berkeley với giáo sư Oppenheimer, đi giữa, và đồng nghiệp.


Tôi đã xem phim “Oppenheimer” chiếu ngoài rạp, một phần vì tiểu sử của nhà khoa học vật lý đã chế ra bom nguyên tử, từng giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học U.C. Berkeley và vì cũng muốn biết ngôi trường thân yêu của mình đã được lên phim như thế nào.
    Qua phim, khán giả có thể dễ dàng nhận ra tháp chuông Campanile, nhưng hình ảnh này chỉ thấy rất thoáng qua. Còn những nơi khác như LeConte Hall hay cảnh lớp học, phòng làm việc, cũng như Faculty Club House là nơi giáo sư Oppenheimer từng sống qua và làm việc trong thập niên 1930 và 1940 thì chỉ những ai từng học ở đây trong thiên niên kỷ trước mới có thể nhận ra. Không thấy những chỗ thân quen nhất trong sân trường là cổng Sather Gate hay Sproul Plaza như thường hiện lên trong các bản tin trên đài, trên báo khi có sự kiện liên quan tới trường.
    Cuối thập niên 1970, khi còn là sinh viên tại Đại học Berkeley tôi đã có những giờ học vật lý trong LeConte Hall và thường đi ngang qua căn phòng lưu niệm của giáo sư Oppenheimer. Thời gian đó, trong ban giảng huấn của trường đã có nhiều giáo sư được trao giải Nobel. Về vật lý có Ernest Lawrence, Emilio Segrè và hoá học có Glenn Seaborg là những bậc thầy với lý thuyết khoa học cao quá mà tôi chưa hiểu được, tuy có được học với thày Segrè một khoá. Còn Oppenheimer không được giải Nobel nhưng là cha đẻ của bom nguyên tử đã được thả xuống Nhật để kết thúc Thế chiến II nên được nhiều sinh viên biết đến.
    Ngoài phim “Oppenheimer” được tung ra chiếu năm ngoái về một nhà khoa học trong ban giảng huấn Đại học Berkeley, từ ngày đến Mỹ tôi đã được xem phim giải trí cũng như phim tài liệu gồm “The Graduate”, “Patty Hearst” và “Berkeley in the Sixties” có liên quan đến đại học danh tiếng này.
    Phim “The Graduate” là chuyện tình của một cô sinh viên Berkeley, trong đó có bài hát quen thuộc với tôi từ ngày còn ở quê nhà là “Giàn thiên lý đã xa” qua giọng hát Thanh Lan mà khi xem phim tôi mới biết tên gốc bài hát là “Scarborough Fair”. Phim còn có ca khúc “Mrs. Robinson” và đặc biệt là bài “The Sound of Silence” nghe lần đầu tôi đã thích ngay.
    “Patty Hearst” là phim về một nữ sinh viên Đại học Berkeley có tên Patricia Hearst, 19 tuổi là con của gia đình triệu phú Hearst của giới báo chí, bị bắt cóc năm 1974 tại nhà ở Berkeley bởi nhóm vũ trang chống chính phủ Mỹ có tên Symbionese Liberation Army. Cô bị ép buộc lên tiếng chống chính quyền, ôm súng đi cướp ngân hàng vào thời điểm có nhiều bạo động chính trị trong vùng Vịnh San Francisco.
    “Berkeley in the Sixties” là phim tài liệu làm nổi bật sự ra đời của phong trào Free Speech Movement xuất phát từ Sproul Plaza trong sân trường vào thời chiến tranh Việt Nam với hình ảnh vệ binh quốc gia đã bay trực thăng xịt hơi cay xuống để giải tán sinh viên đang biểu tình.
    Từ ngày vào học tại đây, vì các hoạt động sinh viên của trường có nhiều liên quan đến Việt Nam, tìm hiểu thêm tôi được biết vào đầu thập niên 1960 Tổng thống John F. Kennedy đã thăm trường; cuối tháng 10/1963 bà Ngô Đình Nhu đã đến đây, được giáo sư khoa chính trị học Robert Scalapino giới thiệu để bà lên tiếng giải độc cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
    Phim “Berkeley in the Sixties” ghi lại lịch sử sự ra đời của “Free Speech Movement” (FSM) là phong trào đòi tự do phát biểu quan điểm chính trị trong khuôn viên đại học đã làm nổi lên phong trào chống chiến tranh Việt Nam mà nhiều người cho là thiên cộng.
    Tôi thích các phim về danh nhân như “Gandhi”, “JFK” hay “Amadeus”, “Malcolm X” nên đã đi xem “Oppenheimer”. Phim có những câu chuyện liên quan đến hoạt động của cộng sản tại Đại học Berkeley từ thập niên 1930, như tôi mới biết thêm về nhà khoa học danh tiếng này. Qua phim “Oppenheimer” tôi mới hiểu rằng ngay tại thành phố Berkeley và trong khuôn viên đại học đã có những người theo cộng sản từ cả trăm năm trước, như người tình Jean Tatlock của Oppenheimer, là con gái của một giáo sư tại trường. Một người em của giáo sư cũng là đảng viên cộng sản. Khi đó nhiều giáo sư cũng đã thành lập nghiệp đoàn, trong đó có Oppenheimer, hoạt động theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và bị giới chức trong chính quyền Mỹ theo dõi vì nghi ngờ là cộng sản, hay làm lợi, làm gián điệp cho Liên bang Xô Viết.
    Có lẽ vì lý do này mà khi được tung ra chiếu tại rạp ở Mỹ và trên toàn thế giới, tôi nghe nói phim đã không được chiếu ở Việt Nam. Trong liên hoan phim Oscars 2024 hai tuần trước, “Oppenheimer” đã đoạt 7 giải, trong số đó có các giải phim hay nhất, đạo diễn xuất sắc nhất Christopher Nolan, diễn viên chính xuất sắc Cillian Murphy và diễn viên phụ xuất sắc Robert Downey Jr.
    Giáo sư J. Robert Oppenheimer là lý thuyết gia vật lý, giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu sinh tại Đại học Berkeley từ năm 1929 đến 1943. Sau đó được chính phủ Mỹ chọn làm khoa học gia đứng đầu dự án Manhattan Project và ông đã chiêu mộ nhiều giáo sư vật lý và nghiên cứu sinh từ Berkeley cùng tham gia.
    Khởi xướng qua lý thuyết từ Đại học U.C. Berkeley, được đưa qua trung tâm thí nghiệm ở Los Alamos, tiểu bang New Mexico để thử nghiệm và nước Mỹ đã thành công trong việc chế tạo ra những trái bom nguyên tử đầu tiên.
    Tổng thống Harry Truman ra lệnh cho ném những trái bom này xuống Hiroshima ngày 4/8 và Nagasaki ngày 6/8/1945 khiến Nhật phải đầu hàng, đưa đến việc chấm dứt Thế chiến II. Khi gặp Tổng thống Truman, Oppenheimer tỏ ra không vui vì sức tàn phá của bom làm chết hàng trăm nghìn dân Nhật và quan ngại khi thấy chính phủ tuỳ tiện sử dụng bất kể hậu quả. Tổng thống Mỹ thì tỏ vẻ thất vọng và không muốn gặp “crying baby” nữa, ám chỉ nhà khoa học đã chế ra hai trái bom nguyên tử đầu tiên cho nước Mỹ.
    Là cố vấn cho Uỷ ban Năng lượng Nguyên tử của Hoa Kỳ, giáo sư Oppenheimer lại không tán đồng việc nghiên cứu, chế tạo bom khinh khí Hy-drô trong cuộc chạy đua vũ khí với Liên Xô, vì thế một số chính trị gia Mỹ đã đặt nghi vấn về lòng trung thành của nhà khoa học gốc Do Thái với nước Mỹ qua sự kiện ông từng có quan hệ với những đảng viên cộng sản Mỹ khi ở Berkeley, vợ ông là Katherine “Kitty” Puening cũng từng theo cộng sản. Một uỷ ban gồm các nhà lập pháp Hoa Kỳ sau khi nghe điểu trần đã quyết định không gia hạn giấy đặc quyền an ninh – Security Clearance – cho ông.
    Đó là không gian nước Mỹ của thập niên 1950 khi mà trong Quốc hội Mỹ có uỷ ban điều tra những cá nhân bị nghi ngờ có liên hệ với cộng sản.
    Những cảnh trong phim như tháp Campanile, khu nhà lưu trú của các giáo sư, phòng học trong LeConte Hall nay trông vẫn quen thuộc như xưa. Chỉ có điều là trong những năm gần đây tên của toà nhà khoa vật lý, nơi Oppenheimer có văn phòng, nhà trường đã xoá tên LeConte vì nhà khoa học này từng ủng hộ quan điểm “da trắng thượng đẳng”.
    Hôm 10/3 vừa qua, khi nam diễn viên xuất sắc Cillian Murphy lên nhận giải Oscars 2024 ông đã có phát biểu cho thấy thực tế hôm nay giống như thế giới 70 năm trước đây: “Chúng tôi làm phim về nhân vật đã chế ra bom nguyên tử, làm cho thế giới tốt hơn hay xấu đi, thì tất cả chúng ta hiện như đang sống trong thời đại của Oppenheimer.” Đó là một thế giới hiện có nhiều chia rẽ, xung đột và chiến tranh. Cũng như nước Mỹ cũng đã chia rẽ trong thời chiến tranh Việt Nam và nay đang phân cực trong chính trị nội bộ có thể đưa đến bạo động.
 
Bùi Văn Phú

BuiVanPhu_2024_0316_Oppenheimer_H03_Oppenheimer_Seaborg_Lawrance
Ba giáo sư Đại học Berkeley trong thập niên 1930 là Robert Oppenheimer, bên trái, Glenn Seaborg và Ernest Lawrence (Ảnh: BerkeleySide.org)
 
BuiVanPhu_2024_0327_Oppenheimer_UCB_H04_Lawrence_OppenheimerCảnh trong phim với giáo sư Lawrence, bên phải, và Oppenheirmer trong phòng làm việc cũng là lớp học của giáo sư Oppenheimer tại Đại học Berkeley vào thập niên 1930.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hai phụ nữ bị thưa ra Tòa án Paris về tội xúc phạm sĩ diện và đời sống riêng tư vì hai người này quả quyết bà vợ của ông Tổng thống Macron là người chuyển giới và bà vì thế không phải là mẹ của các con của bà. Hai phụ nữ loan tin thất thiệt đó sẽ ra Tòa vào ngày 16 tháng 6 tới đây. Một bà là đồng bóng, bà kia là nhà báo độc lập. Đồng thời, nhiều Twitter và hashtag #JeanMichelTrogneux đồng loạt quả quyết Đệ nhứt phu nhơn thật sự là một phụ nữ chuyển giới, tên khai sanh là Jean-Michel Trogneux.
Ảo thì không phải là sự thật, không có thật. Những từ ngữ mà chúng ta thường nghe có liên quan xa gần đến việc sống ảo là ảo ảnh, ảo giác, ảo tưởng, ảo vọng, vân. vân...Ảo thuật nhằm đánh lừa giác quan chớ không phải là thật. Đó chỉ là một trò giải trí để mua vui chớ không có hại như ảo giác, ảo tưởng, ảo vọng của những người sống ảo, xa rời thực tế. Sống ảo là một căn bệnh tâm lý gây ra bởi nhiều lý do phức tạp khác nhau, tùy trường hợp của mỗi cá nhân. Có thể là do kém hiểu biết cùng với mê tín, mê muội, có thể do một tại nạn hay một biến cố xảy ra để lại một vết thương trong tâm hồn, có thể do một chấn động vì người thân đột ngột qua đời, có thể do sự thất bại ngoài xã hội, và trong gia đình, có thể vì ảo tưởng theo đuồi một mục tiêu không thật và cuối cùng chạm phải một thực tế phủ phàng.
Ngày nhỏ chúng tôi căng miệng hát một cách thích thú bài nhạc chế từ bài La Marseillaise, bài quốc ca của Pháp. Tôi thuộc cho tới bây giờ, sau nhiều chục năm tôi vẫn còn hát được. “Thầy đồ ngày xưa quen thói nuôi móng tay dài / quần trễ tai hồng đỏ đen mực son. Đầu lúc la lúc lắc đảo như lên đồng / được dăm trẻ ghẻ lở quá hủi phong. / Quát lấy điếu, đem bình phóng , bưng cơi trầu. / Nhân chi sơ, người đi trước / ta bảo phải để vào tai dốt đặc. Ở trên đầu thầy có cái chi lúc lắc? Búi tó, nó to bằng niêu / tính ghét móng tay hằng cân / thọc luôn trong nách, bật tanh tách hoài / Ngâm thơ thích chí rung đùi”. Nhớ nhưng không chắc có đúng không, có thể có chỗ không nhớ tôi đã chế ra. Nhạc chế cũng như ca dao không bao giờ có tên tác giả. Không biết đây là một bài nhạc chế để chọc quê chính quốc lúc đó đang cai trị Việt Nam hay đùa chơi với các thầy đồ của một anh học trò không thích tới trường.
Tình cờ trong một gian hàng của nghệ nhân làm Bonsai, cây kiểng, tôi thấy trưng bày một chậu kiểng nhỏ, có nhiều nhánh cong queo, lá hình bầu dục, phía dưới có nhiều lông trắng óng ánh như nhung, trĩu nặng từng chùm quả nhỏ tròn trông giống như trái mồng tơi nhưng nhiều màu sắc: xanh, vàng, đỏ, tím đen... trông rất quen, nhưng không thể gọi ngay ra tên của loài cây này được...
Tôi quen biết một cô Tây, gọi là một cô đầm thì đúng hơn, tên gọi đầy đủ là Florence Cavalier, vợ của ông tây Jean Paul Cavalier. Florence còn trẻ, lối 30 tuổi. Ngày từ khi còn nhỏ, 9 tuổi, Florence đã là một hướng đạo sinh, scout, lớn lên em học và hành nghề y tá. Cái gốc scout và nghề nghiệp y tá bổ túc lẫn cho nhau, thêm Flor có ngoại hình xinh xắn tươi vui, thành ra trông lúc nào cô ấy cũng tràn đầy nghị lực, sức sống và yêu đời...
Muốn biết một đất nước có văn minh hay không, người ta thường quan sát nhiều khía cạnh khác nhau với một tinh thần phóng khoáng, một tâm trạng cởi mở, không thiên vị, về xã hội, cách điều hành đất nước (governance), việc bảo tồn và thăng tiến văn hóa, về mức sống người dân như việc chăm sóc sức khỏe, môi trường, giáo dục, và trên hết là sự hạnh phúc (well-being) của người dân...
Cuối tháng ba, đầu tháng tư và kéo dài đến tháng sáu, tháng bảy, du khách đến với Đà Lạt, từ những con đường Hai Bà Trưng, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, đến Hồ Xuân Hương, Chợ Đà Lạt, hay Thung Lũng Tình Yêu, Thiền Viện Trúc Lâm... sẽ thấy lòng mình chùng xuống, trước sắc tím lãng mạn, êm đềm và thơ mộng của những cây “ phượng vĩ tím” hay gọi tắt là “phượng tím”. Những cây phượng có nguồn gốc từ Châu Âu, du nhập vào Đà Lạt từ những năm 1962 của thế kỷ trước.
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội, người người nói, nhà nhà nói. Nó trở thành từ cửa miệng của rất nhiều người trong đạo lẫn ngoài đời. Những tà sư, thầy cúng, các nhóm lợi ích kết hợp với những thế lực chính trị và thế lực ngầm ra sức phá rừng, xẻ núi, lấp ruộng… để làm những ngôi chùa, đền, miếu khổng lồ phục vụ cho cái gọi là du lịch tâm linh, hành hương tâm linh… Ngoài những ngôi chùa khổng lồ ấy ra còn có vô số chùa tư, đền, miếu, am, dinh, miễu...mọc lên như nấm sau mưa. Có một điểm chung là các cơ sở này thờ hằm bà lằng từ Phật, thánh thần, thiên, ông đồng bà cốt, cậu hoàng… và cả những nhân vật chính trị thế tục.
Người đọc nhìn thấy môt hình ảnh rất nhỏ, khiêm tốn, ngay trong ngày đầu 30-4-1975, hình ảnh người chiến binh giải phóng Sàigòn đang quì gối cầu nguyện bên ngoài ngưỡng cửa Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn. ..
Chùa Linh Sơn ở Joinville Le Pont của chúng tôi, bên dưới chánh điện là một phòng sinh hoạt Phật sự khá khang trang và rộng rãi dành cho các em oanh vũ gia đình Phật tử Quảng Đức. Các em tới học Phật pháp, tập hát, học giáo lý và cùng làm văn nghệ. Trên tường chính diện có treo một tấm tranh lớn như bằng hai cái chiếu, chiếm gần hết một phần tường. Trong tranh là cảnh biển trời bao la xanh xanh vây quanh, tọa lạc ở gần giữa là hình tổ Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc giầy trên tích trượng vắt vẻo trên vai. Ngài đang thong dong du hành vô ngại đầy an bình.