Hôm nay,  

Hội Họa Phật Giáo Thái Lan

08/12/202300:00:00(Xem: 2240)

_01-Kosit-portrait

Họa sĩ Chalermchai Kositpipat

   
Đối với nhiều người Thái Lan, Chalermchai Kositpipat là họa sĩ đương đại lớn nhất của nền mỹ thuật Phật Giáo Thái Lan. Những nét vẽ và kiến trúc của ông vừa mang chất thần thoại truyền thống, vừa đậm chất kỹ thuật tân kỳ của thế kỷ 20 và 21 – vừa dịu dàng, thơ mộng, như thật như mơ, nhưng là những bước đi đầy các khám phá mới trên vùng đất tiền nhân chưa khai thác hết, nổi tiếng với việc sử dụng hình ảnh Phật giáo, và các họa phẩm của Chalermchai đã nhiều lần triển lãm trên toàn thế giới.
 
Chalermchai Kositpipat sinh ngày 15/2/1955. Thân phụ ông là một người Trung Quốc nhập cư từ Quảng Đông trong khi mẹ anh là người Thái gốc Hoa. Kositpipat theo học tại Đại học Mỹ thuật Silpakorn, tốt nghiệp Cử nhân Mỹ thuật chuyên ngành nghệ thuật Thái Lan năm 1977. Ban đầu, ông vẽ quảng cáo phim trên bảng quảng cáo. Những bức tranh tường đầu tiên của ông pha trộn giữa nghệ thuật nhà chùa Phật giáo truyền thống của Thái Lan với những hình ảnh đương đại.
 
Năm 1980, Chalermchai đến thăm Sri Lanka (Tích Lan) trong chuyến đi nước ngoài đầu tiên và ở đó sáu tháng, nghiên cứu kiến trúc, điêu khắc, hội họa và các ngôi chùa Phật giáo của Sri Lanka. Ông được ảnh hưởng bởi những bức tượng và đền thờ màu trắng ở Sri Lanka. Ông đã làm việc chặt chẽ với nghệ sĩ kỳ cựu Manju Sri của Sri Lanka. Chalermchai đã tổ chức triển lãm nghệ thuật cá nhân tại Phòng trưng bày nghệ thuật Lionel Wendt ở Colombo, Sri Lanka. Sau cuộc triển lãm, ông đã mang những tác phẩm nghệ thuật đó sang Thái Lan và bán hết.
 
Năm 1988, ông được giao nhiệm vụ vẽ tranh tường cho chùa Wat Buddhapadipa ở London. Các bức tranh tường nơi đây mất bốn năm để hoàn thành và gây tranh cãi vì kiểu dáng hiện đại. "Tôi nhận được lời phàn nàn từ mọi người - từ chính phủ [Thái Lan], từ các nhà sư và từ các nghệ sĩ khác, nói rằng những gì tôi đang làm không phải là nghệ thuật Thái Lan," ông được trích dẫn nói vào năm 1998.
 
Cuối cùng, công việc của ông đã được chấp nhận nhiều hơn, trong đó Vua Thái Lan Bhumibol Adulyadej là một trong những khách hàng của ông. Một tác phẩm của ông đã được bán với giá 17.500 USD vào năm 1998 tại cuộc đấu giá nghệ thuật Thái Lan tại Christie's Singapore. Một tác phẩm khác của ông, "Food Offering to Monks" (Thực phẩm cúng dường chư Tăng), được bán với giá 59.375 USD vào ngày 7 tháng 3/2018.

_02 Kosit chua trang_white temple

Ngôi chùa trắng Wat Rong Khun ở tỉnh Chiang Rai, Thái Lan, do Chalermchai Kositpipat đích thân vẽ kiểu, chỉ dẫn xây dựng mà ông gọi là công trình cả đời.

 
Trong số các tác phẩm của ông có Wat Rong Khun, một ngôi chùa Phật giáo màu trắng trang trí công phu đang được xây dựng ở tỉnh Chiang Rai quê hương ông. Công việc xây dựng ngôi chùa được bắt đầu vào năm 1997 và vẫn tiếp tục.
 
"Chỉ có cái chết mới có thể ngăn giấc mơ của tôi nhưng không thể ngăn cản dự án của tôi," Chalermchai được trích dẫn khi nói về ngôi chùa và nói thêm rằng ông tin rằng công trình ngôi chùa trắng sẽ mang lại cho ông "cuộc sống bất tử". Ông là người được vinh danh về nghệ thuật thị giác đầu tiên khi khai mạc lễ trao Giải thưởng Silpathorn Award, được thành lập từ năm 2004 để vinh danh những nghệ sĩ đương đại Thái Lan đang ở giai đoạn giữa sự nghiệp. Cuối năm 2011, ông được Ủy ban Văn hóa Quốc gia Thái Lan vinh danh là Nghệ sĩ Quốc gia.
 
Đức Phật nghĩ gì về hội họa?
 
Tới đây, chúng ta có thể nêu lên một thắc mắc về triết lý hội họa Phật Giáo. Đức Phật nghĩ gì về hội họa? Và có bức tranh chân dung Đức Phật nào được vẽ khi ngài còn sinh tiền hay không?
 
Chúng ta không có bức chân dung chính xác nào về Đức Phật. Các tranh vẽ và tượng về Đức Phật chỉ xuất hiện khoảng 500 năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bản. Không phải vì thời Đức Phật chưa có họa sĩ, nhưng phần lớn vì Đức Phật không xem trọng các pháp hữu vi, và luôn luôn ưu tiên thúc giục các môn đệ tìm giải thoát ra khỏi tất cả những gì gọi là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp -- nghĩa là xa lìa những cái được thấy (mà tranh và tượng là những cái được thấy), xa lìa những cái được nghe (mà âm nhạc là những cái được nghe), và vân vân. Do vậy, các tranh tượng đời sau là từ sức sáng tạo riêng, rất cá nhân, của các họa sĩ và điêu khắc gia. Và hiển nhiên là, họa sĩ Phượng Hồng và họa sĩ Nhuận Thường của hội họa Việt Nam vẽ Đức Phật khác hẳn các Đức Phật trong tranh Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, Thái Lan…
 
Kinh ghi lại rằng, Đức Phật có một thân tướng rất đẹp, nhưng luôn luôn nhắc tứ chúng rằng hãy quán thân là bất tịnh, bất kể là thân của chúng sinh nào trong các cõi trời, người. Trong Kinh SN 22.87 (Vakkali Sutta), Đức Phật cảnh giác chúng ta về thân Phật rằng: “Đủ rồi, Vakkali! Có gì để thấy trong tấm thân bất tịnh này? Ai thấy Pháp, Vakkali, là thấy ta; và ai thấy ta, là thấy Pháp. Thực sự thấy Pháp, mới thấy được ta; và thấy ta, chính là thấy Pháp." Nói như thế, cũng là thúc giục tu học, thúc giục phải thấy pháp ấn vô thường, phải tu như lửa cháy trên khăn bịt đầu.
 
Chúng ta nên nhớ rằng, thời Đức Phật đã có các họa sĩ, những người hành nghề sáng tạo mỹ thuật. Tuy nhiên, Đức Phật trong các kinh sơ kỳ luôn luôn nhắc rằng khi đối mặt với các tác phẩm hội họa, chớ có nên khởi lên một “thức thực say đắm” (món ăn say đắm của tâm thức) vì sẽ gặp cơ nguy sinh tử luân hồi.
 
Trong Kinh SN 12.64, Đức Phật có dẫn ra trường hợp thức thực khi nhìn thấy bức tranh hình người đàn bà hay đàn ông, theo bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:
 
Này các Tỷ-kheo, nếu đối với thức thực, có tham, có hỷ, có ái, thời có thức được an trú, tăng trưởng. Chỗ nào có thức được an trú, tăng trưởng, chỗ ấy có danh sắc sanh. Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các hành tăng trưởng. Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy hữu được tái sanh trong tương lai. Chỗ nào hữu được tái sanh trong tương lai, chỗ ấy có sanh, già chết trong tương lai. Chỗ nào có sanh, già chết trong tương lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có khổ, có não.
 
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người thợ nhuộm hay một người thợ vẽ. Nếu có thuốc nhuộm hay sơn màu nghệ, màu xanh, hay màu đỏ, có một tấm bảng khéo đánh bóng, một bức tường hay tấm vải, có thể phác họa hình người đàn bà hay người đàn ông có đầy đủ chân tay.”
 
Như thế, cảnh giác về chuyện say mê người trong tranh không phải ban đầu là từ chuyện Bích Câu Kỳ Ngộ của văn học Việt Nam, mà đã từ rất xa xưa trong Kinh Phật. Do vậy, trong 500 năm đầu tiên sau khi Đức Phật viên tịch, nghệ thuật Phật Giáo là phi hình tượng. Chủ yếu là biểu tượng như hoa sen, như cây Bồ Đề, như bánh xe luân hồi, như bàn chân Đức Phật… Và tới khi các họa sĩ tài năng quyết định vẽ tranh, đúc tượng, bấy giờ chúng ta mới có nhiều mô hình Đức Phật khác nhau, và có thể các họa phẩm mang tính dị biệt sắc tộc theo hình dung của họa sĩ. Từ đó, là trăm hoa đua nở. Mỗi quốc độ, là những mắt nhìn nghệ thuật khác nhau.
 
Nên ghi nhớ, ý nghĩa các tranh tượng đời sau trong Phật Giáo không chuyên chở các mục đích thế tục. Những tranh tượng Phật Giáo được các nghệ sĩ sáng tạo nhằm để truyền cảm hứng cho sự sùng kính, thờ cúng hoặc chiêm nghiệm. Nghĩa là, các tranh và tượng Phật, dù tượng ngồi hay đứng, đều được vẽ hay sáng tạo để nêu lên sự tôn nghiêm của giới hạnh, sự trầm mặc của định lực và sự linh mẫn của trí tuệ.
 
Bây giờ, chúng ta đã có Internet, nên mỹ thuật Phật Giáo dễ dàng nhìn thấy trên các mạng. Nhưng vài mươi năm trước, bạn phải bước vào một số ngôi chùa, như Chùa Xá Lợi tại Sài Gòn, mới thấy các tác phẩm hội họa, trong hình thức tranh tường hoặc phù điêu, nơi các bức tường nhà chùa, ghi lại cuộc đời Đức Phật. Điểm khác biệt giữa mỹ thuật Phật giáo và các tôn giáo khác là: nghệ thuật Phật giáo được sáng tạo để mô tả các chủ đề Phật giáo và truyền cảm hứng cho thiền định và chiêm nghiệm. Trong khi đa số tranh tượng Phật giáo mỗi quốc gia đều có vẻ đẹp và độc đáo riêng, nhưng có lẽ đa dạng nhất, là các tranh tượng Phật Giáo Thái Lan, một quốc gia gần với chúng ta, may mắn không bị chiến tranh tàn phá trong hơn một thế kỷ qua, và cũng có cơ may nhờ nghệ thuật Phật Giáo được Quốc vương và hoàng gia Thái Lan bảo trợ tận lực.
 
Những cơ duyên để nghệ thuật Phật giáo Thái Lan phát triển rất hy hữu. Một cách chính thức, Thái Lan công nhận năm nhóm tôn giáo: Phật giáo, Hồi giáo, Bà la môn-Ấn Độ giáo, đạo Sikh và Ky tô giáo. Mặc dù không có quốc giáo chính thức nhưng Hiến pháp Thái Lan yêu cầu quốc vương phải theo đạo Phật và tuyên bố rằng vua là “người ủng hộ các tôn giáo.” Phật giáo là tôn giáo lớn nhất ở Thái Lan, với khoảng 94% dân số theo đạo Phật. Hiến pháp Thái Lan không quy định bất kỳ tôn giáo nhà nước nào, nhưng khuyến khích Phật giáo, đồng thời đảm bảo quyền tự do tôn giáo cho mọi công dân Thái Lan. Phật giáo Thái Lan lại nhấn mạnh vào việc xuất gia ngắn hạn cho mọi người đàn ông Thái Lan, nên Phật Giáo có tính phổ cập lan tỏa trong mọi thành phần dân số.
 
Nghệ thuật Thái Lan trải dài nhiều thế kỷ, chuyển biến phong cách theo từng triều đại hoàng gia. Thời kỳ nghệ thuật Dvaravati, kéo dài từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ 12, chứng kiến sự truyền bá của Phật giáo Theravada khắp miền trung, miền bắc, đông bắc và miền nam Thái Lan. Kế tiếp là nghệ thuật Srivijaya, trong các thế kỷ 8 tới 13, miền Nam Thái Lan chịu ảnh hưởng của Vương quốc Srivijaya, bao gồm Sumatra và Bán đảo Mã Lai. Theo thời gian, tới nghệ thuật Lopburi (giữa thế kỷ 11 và 13), rồi nghệ thuật U-Thong, nhận tên từ Vương quốc U-Thong. Rồi tới nghệ thuật Sukhothai (thế kỷ 13-15) trùng hợp với thời điểm Vương quốc Sukhothai được thành lập. Rồi tới các khuynh hướng nghệ thuật Lanna, nghệ thuật Ayutthaya, và rồi nghệ thuật Rattanakosin nổi lên từ năm 1780, khi Vương quốc Rattanakosin được thành lập bởi vua Rama I. Nghệ thuật đương đại Thái Lan xuất hiện vào những năm 1990, pha trộn những nét văn hóa Thái cũ và mới với những bảng màu và hoa văn đa dạng để tạo ra một nền nghệ thuật hiện đại và lôi cuốn.
 
Trong thời hiện đại, có ba nghệ sĩ Phật giáo Thái Lan nổi tiếng nhất là: Chalermchai Kositpipat, Thawan Duchanee, và Chakrabhand Posayakrit.
 
THAWAN DUCHANEE

_03-Ducha_and-white-elephant

Họa sĩ Thawan Duchanee và con voi 6 ngà trong Kinh Phật.

 
Họa sĩ Thawan Duchanee, cũng nổi tiếng tương tự như họa sĩ Chalermchai Kositpipat đã ghi nơi đầu bài. Trong khi nét vẽ của Kositpipat mềm mại, thơ mộng như truyện cổ tích, nét vẽ của Duchanee gân guốc hơn, như những vết cày trên các luống màu. Đề tài Duchanee vẽ phần lớn là các linh vật huyền thoại trong Kinh Phật. Như hình ảnh voi trắng 6 ngà (trong sự kiện Đức Phật nhập mẫu thai). Hay như ngựa Kiền Trắc chở Thái Tử Tất Đạt Đa phóng nước đại vượt dòng sông Anoma để ngài ly gia tìm đạo giải thoát.
 
Thawan Duchanee sinh ngày 27/9/1939, từ trần ngày 3 tháng 9/2014, là một họa sĩ, kiến trúc sư và nhà điêu khắc nổi tiếng quốc tế. Năm 2001, nghệ sĩ nổi tiếng này đã được Văn phòng Ủy ban Văn hóa Quốc gia Thái Lan trao giải thưởng là Nghệ sĩ Quốc gia Thái Lan về Mỹ thuật và Nghệ thuật Thị giác (National Thai Artist in Fine art and Visual art).
 
Thawan lớn lên ở Chiang Rai, Thái Lan và bắt đầu học nghệ thuật ở tuổi 15 tại Trường Cao đẳng Nghệ thuật và Thủ công (Art and Craft College) với học bổng của Bộ Giáo dục Thái Lan. Năm 1958, ông tiếp tục học tại khoa Hội họa, Điêu khắc và Đồ họa, Đại học Silpakorn. Thawan là một nghệ sĩ có năng khiếu phi thường từ khi còn nhỏ. Thời trẻ, ông có niềm đam mê mãnh liệt với Phật giáo. Tuy nhiên, thái độ của ông đối với công việc sáng tạo đã thay đổi kể từ khi ông vào được thế hệ sinh viên cuối cùng của bậc thầy Silpa Bhirasri tại Đại học Silpakorn. Thawan đạt điểm cao trong các tác phẩm vẽ của mình cũng như các tác phẩm vẽ của ở trường đại học nhưng lại đạt điểm thấp trong lớp vẽ của họa sư Silpa. Lý do thầy Silpa giải thích về điểm thấp của Thawan là “họa phẩm cá của bạn không có mùi tanh, họa phẩm chim của bạn không thể bay trong không trung, họa phẩm ngựa của bạn không thể cưỡi hoặc phóng đi. Bạn chỉ là một người sao chép chứ không phải một nghệ sĩ thực sự.” Kể từ đó, Thawan bắt đầu làm việc theo một cách khác và trở thành một sinh viên xuất sắc.
 
Sau ba tháng nằm viện vì biến chứng do tăng huyết áp và tiểu đường, Thawan qua đời vì suy gan vào ngày 3 tháng 9/2014, ở tuổi 74. Tang lễ được tổ chức tại Chùa Wat Debsirindrawas ở Bangkok. Lễ hỏa táng vinh dự được ban tặng bởi Công chúa Hoàng gia Maha Chakri Sirindhorn.

_04 Ducha _horse

Nét vẽ ngựa Kiền Trắc của họa sĩ Thawan Duchanee.

 
Các tài liệu tham khảo về Phật giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong các tác phẩm của Thawan. Theo một trong những tác phẩm đáng chú ý, loạt tranh Ramayana mà ông đã trình bày tất cả các nhân vật theo cách giải thích của riêng mình. Thawan đã nổi tiếng khắp thế giới với tư cách là một nghệ sĩ đương đại Thái Lan nhờ những bức tranh Phật giáo này. Triết lý về nghệ thuật? “Nghệ thuật vượt xa thiên nhiên và trí tuệ,” Thawan giải thích. Ông ưu tiên sự sáng tạo nghệ thuật của con người trong tác phẩm nghệ thuật.
 
Thawan cũng là người điêu khắc đầu tiên sử dụng kỹ thuật mới. Ông đã sử dụng loại bút bi đặc biệt để tạo ra những bản khắc chứa hàng triệu nét vẽ. Sau khi làm việc theo cách này một thời gian, một bác sĩ đề nghị ông dừng lại vì cách ông làm việc có ảnh hưởng tai hại đến sức khỏe. Thawan cũng tạo ra bức tranh bằng bút vẽ Zen nhằm thể hiện triết lý Thiền dưới hình thức nghệ thuật.
 
Nét độc đáo trong tranh của Thawan không chỉ ở hình thức, câu chuyện tôn giáo mà còn ở màu sắc ông sử dụng. Sau khi tìm hiểu về các tác phẩm nghệ thuật của Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản, đặc trưng là hội họa đơn sắc, anh đã có cảm hứng vẽ tranh đen trắng để thể hiện chính xác cảm xúc nội tâm. Thawan không chỉ nổi tiếng về hội họa mà còn về kiến trúc. Kiệt tác kiến trúc của ông là Bảo tàng viện Baan Dam Museum, được người nước ngoài gọi là "Black House Museum" (Bảo tàng Nhà Đen) là một bảo tàng nghệ thuật tư nhân bao gồm sự kết hợp giữa các tòa nhà truyền thống miền Bắc Thái Lan với kiến trúc độc đáo và đương đại, được thiết kế bởi Thawan Duchanee. Đó cũng là nơi ở của Thawan trong suốt quãng đời còn lại.
  
CHAKRABHAND POSAYAKRIT

_05-posaya-portrait

Họa sĩ Chakrabhand Posayakrit và nét vẽ thiên nữ trong Kinh Phật.

 
Một người khổng lồ khác của nghệ thuật Phật Giáo Thái Lan là Chakrabhand Posayakrit. Họa sĩ Posayakrit sinh ở Bangkok, ngày 16/8/1943. Ông cũng được Văn phòng Ủy ban Văn hóa Quốc gia Thái Lan công nhận là nghệ sĩ quốc gia trong lĩnh vực nghệ thuật thị giác (hội họa) vào năm 2000. Đóng góp của ông cho nghệ thuật Thái Lan còn lớn hơn nhiều so với các bức tranh của ông. Trong vài thập niên qua, ông đã dành phần lớn thời gian của mình cho múa rối Thái, một bộ môn bao gồm nhiều nhánh nghệ thuật Thái Lan từ hội họa và thủ công truyền thống đến biểu diễn.
 
Là sinh viên của Giáo sư Silpa Bhirasri (tên khai sinh là Corrado Feroci) – cha đẻ của nghệ thuật hiện đại ở Thái Lan và là người sáng lập Đại học Silpakorn, Chakrabhand đã lấy bằng cử nhân Mỹ thuật tại Khoa Hội họa, Điêu khắc và Nghệ thuật Đồ họa của trường đại học vào năm 1968. Nhiều thập niên sau, Chakrabhand nhận bằng Tiến sĩ Danh dự về Nghệ thuật của Đại học Chulalongkorn năm 1989 và bằng Tiến sĩ Danh dự về Nghệ thuật Ứng dụng của Đại học Silpakom năm 1995. Sinh ra ở Bangkok khi Thế chiến thứ hai sắp tàn, Chakrabhand phát triển niềm yêu thích với nghệ thuật khi còn rất trẻ. Ông kể lại, “Tôi đã ‘viết tranh’ ngay cả trước khi bắt đầu viết kor kai (chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái tiếng Thái, tương đương với A).”
 
Họa sĩ Chakrabhand Posayakrit được coi là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất của đất nước với một số tác phẩm đạt giải thưởng tại các cuộc thi nghệ thuật quốc gia. Nhưng điều khiến ông nổi tiếng nhất chính là tác phẩm độc đáo và vô số tác phẩm kết hợp nghệ thuật truyền thống Thái Lan với thẩm mỹ hiện đại. Bình luận về số lượng tranh của mình, ông từng nói, “Tôi cảm thấy mình làm như gà đẻ trứng… và cứ đẻ trứng”.

_06 posaya_tranh tuong vach chua

Tranh tường trên vách chùa do họa sĩ Chakrabhand Posayakrit sáng tác.

 
Những người phụ nữ trong tranh của Chakrabhand được biết đến với vẻ đẹp thanh tú dù họ được vẽ từ văn học, kịch hay sinh vật thần thoại, chẳng hạn như Kinnaree, một sinh vật nửa người nửa chim trong thần thoại Phật giáo và Ấn Độ giáo. Hầu hết những hình ảnh này được sao chép hàng năm và bán để gây quỹ cho các tổ chức từ thiện trong dịp Tết.
 
Ông cũng nổi tiếng với những bức chân dung cũng như tranh minh họa về các tác phẩm văn học Thái Lan, trong số đó có Inao, một câu chuyện dân gian có nguồn gốc từ đảo Java Indonesia, được ông vẽ cho Nhà xuất bản Thai Wattana Panich vào năm 1967 và cho những câu chuyện dân gian địa phương ở Muang Boran (tạp chí Ancient City) năm 1977.
 
Chakrabhand còn được công nhận là bậc thầy về vẽ tranh tường, một loại hình nghệ thuật truyền thống thường tô điểm trong các ngôi chùa Thái Lan. Những bức tranh tường của Chakrabhand có thể được nhìn thấy tại các Chùa Trithosathep Worawihan ở Bangkok và Wat Khao Sukim, huyện Tha Mai, tỉnh Chanthaburi ở phía Đông Thái Lan. Các tác phẩm của Chakrabhand và các đệ tử của ông được nhiều người coi là đại diện cho một trường phái mới trong truyền thống thủ công của Thái Lan.  
 
Say mê đọc sách tới mức tự nhận là một con mọt sách, Chakrabhand cũng là một nhà văn tài năng, người trước đây đã từng viết bài cho tạp chí phụ nữ Lalana dưới bút danh Sasiwimol, cũng như cho tạp chí Ploygampetch. Các bài viết của ông đã được biên soạn thành nhiều cuốn sách bỏ túi về nghệ thuật.
 
Ông cũng có công giúp hồi sinh nghệ thuật múa rối Thái Lan. Chakrabhand luôn yêu thích nghệ thuật truyền thống Thái Lan và múa cổ điển. Năm 1955, khi còn là học sinh tại trường nội trú tư thục dành cho nam sinh Vajiravudh College, lần đầu tiên ông nhìn thấy những con rối trên TV. Ông say mê vở múa rối kể câu chuyện về Phra Aphai Mani, một bản anh hùng ca của nhà thơ vĩ đại Sunthorn Phu (1786-1855), đến nỗi ông bắt đầu tự làm những con rối que từ những vật liệu xung quanh mình, chẳng hạn như bút vẽ và đũa gãy.

_07 posaya art

Tranh tường trên vách chùa do họa sĩ Chakrabhand Posayakrit sáng tác.

 
Tình yêu của ông dành cho nghệ thuật múa rối truyền thống Hun Krabok không bao giờ phai nhạt. Sau khi tốt nghiệp, ông làm giảng viên thỉnh giảng tại Khoa Nghệ thuật Trang trí của Đại học Silpakorn. Tại đây, ông quen Chuen Sakulkaew, một nghệ sĩ múa rối truyền thống dân tộc. Cô dạy về nghệ thuật Hun Krabok, và sau đó ông tiếp tục học cách chế tạo và phục hồi những con rối. Và rồi, ông đã tạo ra một loạt con rối của riêng mình. Và thế là Đoàn múa rối Chakrabhand Posayakrit ra đời. Năm 1975, đoàn kịch ra mắt tại Nhà hát Quốc gia với vở kịch “Phra Aphai Mani: Thoát khỏi con hổ biển”. Buổi biểu diễn đầu tiên đã giúp anh gặp gỡ và học hỏi thêm kiến thức từ Wong Ruamsuk, một bậc thầy múa rối khác đến từ Amphawa, tỉnh Samut Songkhram.
 
Nhìn chung, nghệ thuật Phật Giáo Thái Lan phát triển đa dạng, phong phú, bắt rễ từ truyền thống nghệ thuật dân gian lâu đời của dân tộc Thái Lan kết hợp với những quan điểm hiện đại, vừa được các triều đình hoàng gia bảo trợ, vừa cung ứng cho cả nhu cầu tâm linh bản thân các họa sĩ và cho nhu cầu tranh tường của các chùa. Tranh Phật Giáo Thái Lan mang chất bí ẩn hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy, vì các họa sĩ Thái Lan từ khi còn niên thiếu đã nhiều lần vào chùa tu ngắn hạn, và nét vẽ của họ cũng là từ các chiêm nghiệm thiền định nhiều năm của bản thân. Nơi đó, họa phẩm không phải là thuần túy sao chép từ hiện thực, mà còn là những con ngựa Kiền Trắc phóng nước đại vượt sông Anoma trong các giấc mơ từ thơ ấu (và từ tiền kiếp) của họ.
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Có một người sống trong thành phố, bận rộn, tranh đấu, xông pha, lăn lộn giữa sự phức tạp như một sinh trùng bị mắc lưới nhện vẫn phải vùng vẫy để sống, để chờ ngày bị ăn thịt. Một hôm, ông ta đi du lịch, thấy một phong cảnh đẹp đến mức lặng người, cảm thấy siêu thoát, nhận ra đạo lý của mục tiêu tại sao con người tồn tại. Nhưng vẫn phải trở về phố cũ, y như Lưu Nguyễn phải trở về làng cũ vì những lý do chính xác, vì lẽ phải của những bổn phận làm người. Ông vẽ lại phong cảnh đó trên một vách tường lớn. Mỗi khi đời giông bão, mỗi khi hồn âm u, mỗi khi trí khổ não, ông đến trước bức tranh, nhìn ngắm, ngẫm nghĩ để tìm thấy sự thanh thản, sở hữu cảm giác bình an. Ông nghe được tiếng hát “chiều nay vang lừng trên sóng.” Ông thấy được “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.” Hồn ông “lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan.” Những giờ phút tĩnh lặng đó, tâm trí ông “Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quên … là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…”
Bạn có thể gọi Arnaud Nazare-Aga là một nhà điêu khắc, hay một lạt ma vào đời, hay đơn giản, là một nghệ sĩ và là một cư sĩ. Một thời anh đã ngồi trong tu viện để tạc các pho tượng Phật, tượng Bồ Tát, các trụ điêu khắc, và rồi anh rời tu viện để bước vào đời, trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng trong thế giới tượng hình. Nói kiểu tóm gọn theo văn phong báo chí thường gặp là: một nghệ sĩ Phật tử người Pháp. Nhưng cuộc đời anh đầy những cơ duyên kỳ lạ. Bài viết này tổng hợp từ nhiều báo, trong đó có Forbes, Time Out, Thai PBS World, The Phuket News... Lời tự giới thiệu của nhà điêu khắc Arnaud Nazare-Aga chỉ đơn giản vài đoạn trên trang nhà riêng. Sinh năm 1965 tại Paris, Arnaud Nazare-Aga đã sinh khởi niềm đam mê với kiến trúc và điêu khắc hiện đại từ khi còn thơ ấu. Anh thường xuyên đi thăm viện bảo tàng cùng ba mẹ. Anh được giáo dục trong một cộng đồng Phật giáo Tây Tạng ở vùng Burgundy, miền Đông nước Pháp, và học nghề đúc tượng thạch cao nơi đây.
Ann Phong triển lãm tranh ở Quận Cam, tôi bay qua tham dự. Xem tranh trừu tượng là xem tranh bằng tưởng tượng. Tôi là người sống bằng tưởng tượng. Xem tranh Ann Phong, không chỉ xem cái đẹp, xem nét đặc thù của nữ họa sĩ này, nhưng để sau cùng là xem chính “tôi trong quá trình tưởng tượng từ dãy tranh.” Luhraw viết: “Trước đây tôi chỉ có thể đoán chừng mình là ai. Giờ đây, nhờ nghệ thuật, tôi biết mình là ai.” (Quote.) Có nhiều đêm mất ngủ, tôi thường lên mạng xem tranh, đôi khi, ngủ nhờ trong phòng tranh ảo của Ann Phong. Những khi suy nghĩ về sự hiện sinh của con người, của bản thân, tôi thường tự dẫn mình đến một số tranh của Ann Phong theo quan điểm “Dấu người trên đất.” Tôi yêu thích loạt tranh này, vì Ann Phong nói lên những điều bằng họa, mà tôi chưa thể nói hết những suy nghĩ qua thơ.
Viện Bảo Tàng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tọa lạc tại địa chỉ 9842 Bolsa Ave #205, Thành phố Westminster, CA 92683 do Hậu Duệ Bác Sĩ Nguyễn Hoàng Quân làm Giám Đốc đã tổ chức Tết Trung Thu cho các em Thiếu Nhi trong hai ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật 16-17 tháng 9 năm 2023.
Hơn ba năm sau khi bị đánh cắp ở Laren, bức tranh ‘The Parsonage garden at Nuenen in Spring’ (tạm dịch: Vườn Nhà Mục Sư ở Nuenen vào Xuân) của Van Gogh đã được tìm lại. Việc trả lại được thực hiện bởi thám tử tư nhân người Hà Lan Arthur Brand.
Chúng ta không biết phải dịch chữ “immersive art” như thế nào. Khái niệm này chỉ mới xuất hiện vài năm nay, mặc dù đã xuất hiện, phần nào, trong các loại hình nghệ thuật khác, từ cả nhiều thế kỷ trước. Hình như triển lãm “immersive art” lần đầu tiên ở Los Angeles và Las Vegas là đầu năm 2022, với tranh Van Gogh. Phòng triển lảm sử dụng hình ảnh, âm thanh, không gian, sự chuyển động của màu sắc để làm cho bạn, người khán giả, trở thành một người đang tắm gội trong không gian nghệ thuật của họa sĩ Van Gogh (1853-1890). Tại sao chọn Van Gogh để triển lãm đầu tiên cũng chưa rõ, có lẽ vì tranh họa sĩ này sống động, dữ dội hơn nhiều họa sĩ khác, hấp dẫn hơn với dân Nam California. Có thể dịch chữ “immersive art” là hội họa “trải nghiệm hòa nhập” hay “trải nghiệm nhập vai” – bởi vì, khán giả tự thấy mình trở thành một phần của tác phầm đang chuyển động giữa thế giới màu sắc của họa sĩ.
Giới yêu hội họa, hẳn nhiên, đều biết tác phẩm Em Thúy của họa sĩ Trần Văn Cẩn. Bức danh họa này hoàn tất vào năm 1943, và “đã được công nhận là Bảo vật quốc gia.” Tuy thế, không mấy ai để ý là có đến hai phụ nữ tên Nguyễn Thị Minh Thúy (và hai đều được dư luận nhắc đến như là nguyên mẫu của tác phẩm nổi tiếng trên) nhưng cuộc đời của họ lại hoàn toàn khác hẳn nhau.
Những bức vẽ của Pigcasso, một chú heo được nhà hoạt động vì quyền động vật người Nam Phi Joanne Lefson nhận nuôi, được bán ra với giá khoảng 26,000 MK cho mỗi bức, theo cuốn sách mới của Lefson, “Pigcasso: Nàng họa sĩ lợn triệu phú đã cứu một khu bảo tồn” (Pigcasso: The Million-dollar artistic pig that saved a sanctuary).
Cuộc cách mạng không tiếng súng của phong trào dân chủ Thái Lan đã thành công trong cuộc bầu cử giữa tháng 5/2023, với phiếu của giới trẻ và những người có tinh thần dân chủ đã vượt xa phiếu của những người thân chính quyên quân sự. Một trong những người dẫn đầu phong trào đòi thay đổi thể chế, đòi giảm vai trò chính trị của quân đội, đòi xét lại một đạo luật gây tranh cãi chống lại việc xúc phạm chế độ quân chủ… là doanh nhân trẻ Pita Limjaroenrat (sinh năm 1980), từng du học tại Hoa Kỳ và bây giờ là lãnh đạo Đảng Move Forward (Đảng Tiến Lên). Với liên minh nhiều đảng, Pita dự kiến sẽ là Thủ Tướng tương lai, nếu chính quyền quân đội Thái Lan không tìm được cớ gì để cản trở nữa. Nhưng bây giờ, Pita đang bị điều tra về thủ tục. Ủy ban bầu cử Thái Lan đang xem xét liệu Pita có cố ý không đủ tư cách để ghi danh ứng cử viên quốc hội hay không, bởi vì Pita có sở hữu cổ phần trong một công ty truyền thông, vốn là bị cấm theo quy tắc bầu cử.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.