Hôm nay,  

Di sản của Henry Kissinger

08/12/202300:00:00(Xem: 3295)
Henry Kissinger  
Lời người dịch: Việc ra đi của Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger là một đề tài được thảo luận sôi nổi trên các phương tiện truyền thông quốc tế.
  
Nhưng đối với người Việt miền Nam, việc Henry Kissinger ký kết Hiệp định Paris 1973 phải được xem là một sai lầm nghiêm trọng vì Bắc Việt đã lừa đảo được Henry Kissinger khi chiếm trọn mọi ưu thế trên chiến trường và nghị trường. Kết quả này dẫn đến việc Bắc Việt vi phạm Hiệp định và thống nhất lãnh thổ bằng quân sự.
  
Theo nội dung Hiệp định, Bắc Việt và MTGPMN có
ba thắng lợi chính: Một là toàn bộ binh sĩ Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam; hai là công nhận sự hiện diện của 140.000 quân chính quy QĐNDVN ở miền Nam và chính phủ ”ma” MTGPMN; ba là quy chế khu phi quân sự sẽ không đuợc luật quốc tế công nhận và không ai sẽ can thiệp khi vi phạm.
  
Dù tiên đoán Hà Nội không tôn trọng Hiệp định và miền Nam sụp đổ, tại sao Kissinger không chuẩn bị các biện pháp khác nhằm ngăn chặn các hậu quả tàn khốc này? Đây là câu hỏi mà mọi người Việt miền Nam đặt ra để nguyền rủa Kissinger là phản bội VNCH và xem nhẹ các giá trị sống còn của miền Nam, vô đạo đức không thể tha thứ.
  
Kissinger luôn né tránh biện minh trách nhiệm đạo đức cá nhân và những sai lầm trong Hiệp định mà ngược lại đổ trách nhiệm cho chính quyền và dân chúng miền Nam là những người có quyền tự do tự định đoạt số phận của mình. Về trách nhiệm của phía Mỹ, ông dẫn chứng là Nixon bị buộc phải từ chức sau vụ Watergate và Quốc hội còn không muốn tiếp tục viện trợ cho VNCH.
  
Gần đây, có các cáo buộc mới về Henry Kissinger khi đơn phương chấp thuận cho phép binh sĩ Bắc Việt ở lại miền Nam và không thảo luận vấn đề này trước với Richard Nixon và chính quyền VNCH.  
  
Năm 1971 quan điểm công khai của Nixon là cả hai lực lượng Hoa Kỳ và Bắc Việt phải cùng lúc rút ra khỏi miền Nam, để cho người Việt Nam tự giải quyết vấn đề hòa bình.
  
Do đâu mà Henry Kissinger qua mặt  Richard Nixon và VNCH là một vấn đề còn cẩn thảo luận trong chi tiết. Hiện nay, các văn kiện của Henry Kissinger còn bảo mật và ký gởi tại Quốc hội Mỹ. Theo di chúc của ông, các tài liệu này sẽ được tự do tham khảo năm năm sau ngày ông qua đời.
 
***
 
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu.
  
Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.

Sinh ra ở Đức năm 1923, Kissinger di cư sang Hoa Kỳ năm 1938, trở về Đức trong khi phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ, và là một sinh viên và sau đó là giảng viên tại Đại học Harvard. Ông đã phục vụ tám năm trong chính phủ Hoa Kỳ, đầu tiên là cố vấn an ninh quốc gia, và sau đó là ngoại trưởng (giữ cả hai vai trò đồng thời từ năm 1973 đến năm 1975) dưới thời Tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford.
  
Những thành tựu của ông trong lúc tại chức có nhiều và rất đáng kể. Để bắt đầu, đó là sự mở cưa cho Trung Quốc, một cơ hội được tạo ra bởi sự chia rẽ Trung Quốc -Xô Viết, nhưng được nhận ra và sau đó được Kissinger và Nixon khai thác để sử dụng làm đòn bẩy đối với Liên Xô (đối thủ chính của Mỹ vào thời điểm đó). Việc mở cửa ngoại giao đó không chỉ chấm dứt nhiều thập niên thù địch giữa Mỹ và Trung Quốc. Nó cũng tạo ra một công thức để tạo ra sự khác biệt về Đài Loan, đặt nền tảng cho sự chuyển đổi kinh tế của Trung Quốc và thiết lập một mối quan hệ lâu dài và quan trọng hơn bao giờ hết. Ngoài ra còn có sự hoà hoãn: nới lỏng các căng thẳng với Liên Xô. Kissinger và Nixon (mối quan hệ thân thiết của họ là một lời giải thích cho ảnh hưởng của Kissinger) đã cấu trúc mối quan hệ giữa hai siêu cường của thời đại. Điều đó cho phép các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân, các quy tắc về lộ trình quản lý các xung đột liên quan đến từng đồng minh riêng biệt của họ và hội nghị thượng đỉnh thường xuyên, tất cả đều giúp giữ cho Chiến tranh Lạnh còn lạnh khi tình trạng có thể trở nên nóng hoặc tệ hơn là dẫn đến việc leo thang hạt nhân.
  

Sau đó là Trung Đông. Sự tương đồng so với ngày nay rất đáng chú ý, vì chính xác là cách đây 50 năm trước, Ai Cập và Syria đã khiến Israel mất kiểm soát với một cuộc đột kích giống như Hamas đã làm vào ngày 7 tháng Mười. Kissinger và Nixon đảm bảo rằng Israel có sự hỗ trợ quân sự nếu cần thiết; nhưng họ cũng gây áp lực buộc Israel không lạm dụng quá mức lực lượng quân sự, vì điều đó có thể kéo Liên Xô vào cuộc chiến hoặc loại bỏ triển vọng ngoại giao sau đó.  Chính sách ngoại giao “con thoi” cá nhân của Kissinger  đã giúp mang lại một lệnh ngừng bắn và tách biệt các lực lượng vũ trang đối lập, tạo tiền đề cho hoà ước Ai Cập-Israel  do Tổng thống Jimmy Carter đàm phán.
  
Những thành tựu này, bất kỳ một trong số đó sẽ tạo thành một di sản quan trọng cho một ngoại trưởng, chứng minh nhiều yếu tố trung tâm trong phương cách của Kissinger đối với các vấn đề của thế giới. Ông chấp nhận ngoại giao, để chắc chắn; nhưng đó là một chính sách ngoại giao hoạt động trong bối cảnh cân bằng quyền lực thuận lợi. Đó không chỉ là ngoại giao, mà là ngoại giao với sự kiềm chế.
  
Kissinger có khuynh hướng bảo thủ. Ông ưu tiên hoá trật tự, có nghĩa là, những nỗ lực của ông để tránh chiến tranh được ưu tiên hơn các mục tiêu có nhiều tham vọng hơn đang được thúc đẩy bởi những người khác mà họ muốn biến đổi các quốc gia hoặc áp đặt hòa bình bằng công lý. Sự nhấn mạnh của ông là thẳng thắn về mối quan hệ giữa các quốc gia hơn là chính trị bên trong họ. Như Kissinger thấy vấn đề này, công việc chính của chính sách đối ngoại Mỹ là định hình chính sách đối ngoại của các nước khác.
  
Người ta tìm thấy những chủ đề này trong nhiều cuốn sách và bài báo của ông, từ luận án tiến sĩ và hồi ký của ông đến những suy tưởng của về vũ khí hạt nhân, các liên minh, nền ngoại giao và gần đây hơn, trật tự thế giới, Trung Quốc và trí tuệ nhân tạo. Ngay cả khi Kissinger chưa bao giờ phục vụ trong chính phủ, ông vẫn sẽ gây ảnh hưởng sâu xa đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thông qua sức mạnh của các ý tưởng và tài hùng biện trong các bài viết.
  
Tất nhiên, hiện nay có những vị ngoại trưởng Mỹ vĩ đại khác, chẳng hạn như George Marshall, Dean Acheson và James Baker. Nhưng không người nào có thể so sánh với Kissinger khi vừa là một tác nhân vừa là một nhà phân tích. Ông là học giả và hành giả xuất sắc trong thời đại của mình.
  
Nhưng điều này không có nghĩa là Kissinger đã không phạm phải một số điều sai lầm. Ông chắc chắn đã làm, như nhiều người gièm pha và chỉ trích ông nhanh chóng chỉ ra.
  
Các chính sách gây tranh cãi nhất mà ông có tham gia liên quan đến chiến tranh Việt Nam. Giới chỉ trích cuộc chiến đổ lỗi cho Kissinger đã kéo dài nó, và mở rộng sang Campuchia, vào thời điểm mà nhiều người đánh giá nó là không thể thắng và không đáng để chiến đấu. Nhưng ông cũng bị chỉ trích từ những người ủng hộ chiến tranh, do vai trò của ông trong việc đàm phám chấm dứt cuộc chiến. Các điều khoản của "hòa bình" cho phép Bắc Việt thắng được miền Nam trong vòng hai năm.
 
Kissinger cũng đóng một vai trò gây tranh cãi trong các biến cố năm 1971, khi ông đứng về phía Pakistan (một đồng minh của Mỹ đã giúp đỡ bước dọn đường để đột phá với Trung Quốc) bất chấp các báo cáo rằng chính phủ nước này đang thực hiện một chiến dịch đàn áp quy mô, hoặc điều mà nhiều người đánh giá là một cuộc diệt chủng, như ở Bangladesh ngày nay. Cuối cùng, Kissinger vẫn bị chỉ trích dữ dội vì vai trò của ông trong việc cố gắng lật đổ chính phủ ở Chile được bầu cử dân chủ là Salvador Allende, do khuynh hướng ý thức hệ.
  
Kissinger thỉnh thoảng cố gắng bác bỏ những phàn nàn này khác về các chính sách của ông. Nhưng những nỗ lực của ông không hoàn toàn thuyết phục, bởi vì một số phê bình chính đã có giá trị. Tuy nhiên, điểm quan trọng hơn là những thành tựu của Kissinger rất lớn, và lớn hơn nhiều so với những thất bại của ông.
  
Kết quả là một di sản lâu dài, xứng đáng về sự nghiêm túc về thế giới và về sự nguy hiểm của một chính sách đối ngoại của Mỹ được xác định bởi hoặc là dưới tầm với (chủ thuyết biệt lập) hoặc vượt quá tầm với (cố gắng chuyển đổi các tình huống hoặc chế độ chỉ có thể được xử lý, tốt nhất). Đó là một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan để chú ý khi họ một lần nữa phải đối mặt với một thế giới được đánh dấu bởi nền chính trị do các cường quốc và sự hỗn loạn ngày càng tăng.
 
 
– Richard Haass
Đỗ Kim Thêm dịch
 
Richard Haass, Chủ tịch hồi hưu của Council on Foreign Relations và tác giả  The Bill of Obligations: The Ten Habits of Good Citizens (do NXB Penguin Press ấn hành năm 2023) và Home & Away, bản tin Substack phát hành hàng tuần.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.