Hôm nay,  

Chân Tâm Thể Hiện Thân Tâm

04/07/202014:59:00(Xem: 3408)

                                                                                                                      

Câu chuyện nhỏ, do cơ duyên, xảy ra đã lâu, dường như lâu tới hơn hai thế kỷ! Lâu vậy, mà như không lâu, câu chuyện, ngỡ bình thường mà lại không bình thường nếu người trong cuộc không có tên là Thomas Jefferson.

Đó là một buổi chiều mùa đông lạnh giá tại miền Bắc Virginia.

Con đường hun hút không một bóng người, dẫn tới bờ sông dòng nước hung hãn chảy xiết là nỗi tuyệt vọng của một lão ông đơn độc, đang nhìn thấy thần chết mỗi lúc mỗi đến gần. 

Không có phương tiện nào để qua sông trong mùa này. Lão ông biết vậy, nhưng không thể biết hết những bất ngờ mà ông lại phải trở về nhà ngay, đành cố lết tới bờ sông, hy vọng ai đó có phương tiện qua bên kia, sẽ giúp đỡ. Lão ông đã ngồi đó, từ khi mặt trời đứng bóng và bây giờ, mặt trời đang lặn ở phương tây. 

Khi chòm râu bạc đã thành đá và toàn thân đang thành đá thì ông nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập, đều đặn, từ cuối con đường heo hút, đang tiến về hướng bờ sông. Một sức mạnh tinh thần của bản năng sinh tồn khiến lão ông đứng bật dậy.

Và đây, người kỵ sỹ đầu tiên trong đoàn kỵ mã phi ngựa qua trước mặt ông, vượt qua sông. Rồi người thứ hai. Rồi người thứ ba …. 

Lão ông vẫn đứng đó, không một người và ngựa nào dừng lại, sau những ánh mắt lạnh lùng, không cả vương một chút quan tâm “Đứng đây làm gì?”

Rồi cũng tới người và ngựa cuối cùng trong đoàn kỵ mã đang trờ tới. Lão ông vận dụng toàn lực, ngước nhìn, và chạm vào ánh mắt của chàng kỵ sỹ. 

Chỉ thế thôi. Lão ông chưa kịp lên tiếng cầu cứu nhưng người và ngựa đã chậm lại. Bốn mắt nhìn nhau. Và phút giây đó là ngôn ngữ của Tình Người, không phải chỉ là âm thanh của lời cầu cứu: 

-Nhà tôi bên kia sông, anh có thể cho tôi cùng qua bên đó không?

Chàng kỵ sỹ vừa ghìm cương ngựa, vừa vui vẻ nói;

-Sao không? Ông lên đây đi!

Nhưng tất cả sức lực của lão ông như chỉ còn chừng đó, ông quỵ xuống, không bước nổi.

Chàng kỵ sỹ vội xuống ngựa, đỡ ông lên, rồi không chỉ đưa ông lão qua sông mà còn đưa ông về tận nhà, một thôn xóm khuất sau khu rừng thưa.

Trước khi chia tay, chàng kỵ sỹ không thể không nói lên niềm băn khoăn:

-Này lão ông, tôi là người cuối cùng trong đoàn kỵ binh. Bao nhiêu đồng đội của tôi đã đi ngang qua, sao ông vẫn đứng chịu lạnh, không xin giúp đỡ. Vậy, nếu tôi, người cuối cùng, cũng đi qua thì ông sẽ chết cóng đêm nay bên bờ sông ư?

Lúc đó lão ông mới ưu ái nhìn thẳng vào ánh mắt chàng kỵ sỹ mà nói lời cám ơn rằng:

-Dạ, lão biết. Nếu không ai giúp đỡ, lão sẽ chết đêm nay, bên bờ sông này.  Lão sống tại vùng này từ nhỏ, nay đã gần tám mươi, và trực giác thường cho lão những cảm nhận đúng để có quyết định trước mỗi hoàn cảnh. Đoàn kỵ binh đã lần lượt qua mặt lão, vài người đã phi ngựa chậm hơn nhưng chỉ là những cái nhìn tò mò. Thoáng nhìn ánh mắt họ, lão biết rằng họ không đủ quan tâm để lão mở lời cầu cứu. Tình Người chưa đủ thì sẽ có cả ngàn lý do để người từ chối giúp người, nên lão đã không mở lời. Nhưng khi lão nhìn vào ánh mắt của người cuối cùng, lão biết ngay đây sẽ là ân nhân cứu mạng. Mà sự thật đúng như vậy, phải không? Lão và toàn gia đình xin Thượng Đế luôn ban ơn cho Ngài”

Lời bộc lộ chân tình của lão ông đã khiến chàng kỵ sỹ xúc động mà đáp:

-Cám ơn những gì lão ông vừa nói. Tôi hy vọng sẽ không vì quá bận rộn đến nỗi không đủ quan tâm để giúp đỡ những người cần giúp mà tôi được gặp.

Rồi chàng kỵ sỹ chào tạm biệt gia đình ông lão. 

Vì có nhiều khả năng, thiên phú cũng như tinh tấn học hỏi, chàng kỵ sỹ đó đã thường xuyên bận rộn vì được  mọi nơi, mọi người tin tưởng, trao công việc. Nhưng với Chân Tâm, chàng luôn thể hiện qua Thân Tâm, nên những thành quả không phải cho cá nhân mà cho lợi ích của dân tộc, của nhân loại đã luôn thành tựu tốt đẹp.

Chàng kỵ sỹ đó đã miệt mài đi suốt chặng đường phục vụ nhân sinh mà đã hơn hai thập niên, bất kể thể chế nào, sắc áo nào, mầu cờ nào đều không thể phủ nhận đây là một, trong những bậc vĩ nhân của nhân loại.

Đó là Thomas Jefferson, vị Tổng Thống thứ ba của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với hai nhiệm kỳ, từ 1801 tới 1809. 

https://tse1.mm.bing.net/th?id=OIP.Ml8M0GAK72HipTUx_vcsAwHaFj&pid=Api&P=0&w=222&h=167


Đó là Thomas Jefferson, tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ.

Đó là Thomas Jefferson, tác giả đạo luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo.

Đó là Thomas Jefferson, người đã tận dụng hơn mười năm cuối đời vào việc sáng lập Đại Học Virginia.

Có lẽ, đối với Thomas Jefferson, đây là ba mục tiêu quan trọng trong đời mà ông quyết tâm, đạt được vì ba mục tiêu này vẫn duy trì làm lợi ích cho nhân loại. 

Do nhận định rõ rệt này mà Thomas Jefferson đã viết ra, rồi cho thợ khắc sẵn trên bia bộ mình những dòng chữ ngắn gọn:


Hue Tran
“Đây là nơi an nghỉ của Thomas Jefferson, tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo, của người Sáng Lập Đại Học Virginia.”
 

Trên mộ bia này không có chức vụ Tổng Thống Thứ Ba của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ nhưng hơn hai thế kỷ nay, dân tộc này đã không ngừng biểu lộ lòng biết ơn qua sự đánh dấu thời điểm là Lễ Độc Lập 4 Tháng 7 mỗi năm.

Sự trùng hợp kỳ diệu của lịch sử là ngày 4 Tháng 7 năm 1826, khi Bản Tuyên Ngôn Độc Lập vừa tròn 50 năm, cũng là ngày Thomas Jefferson lặng lẽ rời bỏ cõi tạm này ở tuổi 83.

Trùng hợp kỳ diệu, hay con người kỳ diệu này cảm nhận rằng, tới đây đã hoàn thành sứ mạng của một kiếp người ngắn ngủi!


Xứng đáng thay!

Huệ Trân

                              https://tse3.mm.bing.net/th?id=OIP.OG9MvFJZZcUrlA5pTYq5SgHaEK&pid=Api&P=0&w=282&h=159

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở cái xứ sở u Tây này cũng có quá nhiều tự do, thành ra cuộc sống có lúc thành bất cập, công đoàn ra sức nhiều lần đình công, yêu sách này kia, đòi tăng lương, đòi làm ít thời giờ hơn, đòi nghỉ hưu sớm v.v… nhất là công đoàn CGT vận chuyển công cộng người đi làm việc như métro, RER, tramway, bus…
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tư Tưởng ghé ngang hậu cứ, dẫn ba thằng em: Bắc Hà, Th/úy Trọng và tui đi nhậu ở quán Thuỷ Tiên, gần Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn ngày xưa, trước khi dời vô Phi trường Vĩnh Long...
Trên đường đến phòng trưng bày tác phẩm nghệ thuật của Gertrude Stein, tôi bước đi với tâm trạng phấn khích của một người sắp gặp Ernest Hemingway. Nắng chiều Paris phản chiếu từ cửa sổ những quán cà phê xuống con đường đá cũ tạo thành bóng râm dài phía trước. Tiếng reo hò chen lẫn tiếng đàn từ mấy quán bar nhỏ nơi góc phố gây nên bầu không khí sôi động dội vào tâm trí tôi...
Tôi bán hàng giải khát trước cổng nhà máy, khách hàng là những công nhân, bộ đội và cán bộ trong nhà máy. Tôi là “mụ” bán hàng “phản động” luôn tơ tưởng đến chuyện vượt biên. “tri kỷ” của tôi có chị Ky buôn bán ở xa cảng miền Tây, nghề mới của chị sau cuộc đổi đời 1975, trước kia chị là nhân viên một ngân hàng quận Gò Vấp. Chị Ky là hàng xóm, hôm nào ghé quán tôi không chỉ để uống ly đá chanh, uống ly cà phê mà cũng là dịp cùng tôi tâm tình than thở cuộc sống dưới thời xã hội chủ nghĩa, mơ ước chuyện vượt biên...
Mạ xếp hạng chuyện học hành của con cái là quan trọng hàng đầu. Với tiệm sách và quán cà phê, Mạ đã quán xuyến, lo cho gia đình có cuộc sống sung túc, thoải mái một thời gian dài...
Nghe tin chú Nghĩa sắp cưới vợ, bà con trong khu phố xôn xao nửa tin nửa ngờ. Chuyện lập gia đình ai trưởng thành chả thế! Ấy vậy mà với chú Nghĩa thì chuyện này hơi lạ. Đến khi chú đem thiệp đi mời hẳn hoi vậy chắc chắn là sự thật rồi không còn nghi ngờ gì nữa!
Từ ngày về hưu non, hai vợ chồng tôi cứ lục lọi hết website này đến website khác để tìm nơi đẹp đi du lịch; sợ rằng sự hào hứng của tuổi trẻ sẽ không còn nữa, nên phải đi hết những chỗ mình ao ước từ hồi nhỏ đã đọc sách mà không có thì giờ và phương tiện để thực hiện...
Cơn mưa nhỏ lướt qua bầu trời từ bình minh cũng đã chấm dứt; một tia nắng vàng lách qua lùm cây sồi chui vào góc chuồng cừu lớn. Những chú cừu đực ngập trong rơm rạ của máng ăn buổi sáng vừa ngẩng đầu về phía tia nắng và kêu be be...
Bây giờ, việc đi về giữa Mỹ và Việt Nam thật dễ dàng. Nhưng vào thập niên 80, 90 người đi kẻ ở tưởng chừng là biệt ly mãi mãi. Bạn đã nói với tôi như thế trong nước mắt. Và với sự ngăn cấm của gia đình, với tuổi trẻ khờ dại nông nổi, họ đã lạc mất nhau. Để rồi suốt phần đời còn lại, nỗi đau vẫn còn là vết thương rưng rức. Tôi xin ghi lại câu chuyện tình của bạn, như là một lời đồng cảm...
Ngạn rời căn nhà đó và xuống đây theo đơn xin đi làm trong hảng thịt bò. Ngày Ngạn đi cũng buồn tẻ ảm đạm như ngày anh rời đất nước. Người vợ và hai đứa con tiễn anh ở bến xe buýt ''Con chó rừng''...
Chiếc ghe vượt biển nhỏ xíu, mỏng mảnh của chúng tôi vậy mà chất lúc nhúc đến hơn 80 thuyền nhân, chẳng khác nào một cái lá lạc loài trên đại dương mênh mông, không biết đâu là bờ bến. Đoàn người rời bỏ quê hương tụm năm tụm ba, rải rác khắp thuyền, co ro trong cái lạnh ngoài khơi xa tít tắp, đầu óc hoang mang với trăm ngàn ý nghĩ...
Hôm ấy, trên facebook Group của nhóm cựu thuyền/ bộ nhân ty nạn Thailand, có xuất hiện bài post của Đức, chụp hình vợ chồng Đức đang tiễn con gái tại sân bay Tân Sơn Nhất đi qua Dallas Hoa Kỳ định cư theo chồng mới cưới. Ôi, chàng Đức chung chuyến tàu của tôi. Nhiều người quen cũ vào để lại những comments chúc mừng, cũng là những người tôi biết mặt biết tên, tôi liền vào tham dự, góp vui...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.