Hôm nay,  

Thơ Làm Cho Chúng Ta Lắng Dịu

09/06/201900:00:00(Xem: 2073)
LGT: Haleigh Atwood là phụ tá biên tập cho báo Lion’s Roar. Bà cũng đã viết cho Tạp Chí Montecristo Magazine, J-Source, và Mục Thông Tin Buổi Sáng Của CBC Nova Scotia. Trong bài dưới đây Haleigh Atwood phỏng vấn nhà thơ Phật tử người Mỹ Grace Cavalieri.

***

“Người ta tìm ra họ là ai qua việc viết lách,” theo khôi nguyên thơ của Maryland là Grace Cavalieri. Ở tuổi 86, Cavalieri cho Haleigh Atwood biết rằng, bà vẫn còn viết.

Grace Cavalieri là một Phật tử, một hành gỉa thiền, và là khôi nguyên thơ của Maryland. Ở tuổi 86, bà là tác giả của 24 tuyển tập thơ và 26 kịch bản. Bà đã điều hợp chương trình phát thanh lâu đời gọi là Nhà Thơ Và Thơ qua Chương Trình Thư Viện Quốc Hội, chương trình mà bà đã phỏng vấn hơn 2,500 nhà thơ.

Khi phu quân của bà qua đời vào năm 2013 ở tuổi 60, bà tìm kiếm sự ủng hộ và chấp nhận phương cách mà bà đã làm từ cộng đồng, và bà đến với Phật Giáo. Cavalieri kể cho Haleigh Atwood nghe về cuộc hành trình đầy đau buồn và mất mát, về việc bà gia nhập tăng thân Phật giáo, và tại sao thơ là thiền trên đời sống.

Haleigh Atwood: Lần đầu bà khám phá ra Phật Giáo là khi nào?

Grace Cavalieri: Đó là một khởi đầu rất đặc biệt. Chồng tôi qua đời lúc 60 tuổi cách nay 5 năm. Khi ông mất, tôi nói với một trong 4 người con gái của tôi rằng, “Mẹ cần điều mà mẹ đã có từ ba các con. Mẹ cần đại chúng, mẹ cần những người mà mẹ có thể đồng hành.” Tôi đến giáo hội Unitarian và họ đã có báo cho biết về một nhóm thiền, mà tôi nghĩ sẽ là tốt. Tôi khởi sự, và tôi không tin là tôi đã bỏ qua bất cứ một Chủ Nhật nào.   

Tôi cảm thấy như cái chết [của chồng tôi] đã cắt tôi ra làm đôi, nhưng tôi đã bước vào một nơi mà nơi đó người ta làm cho nó bình an.

Đại chúng là thành phần quan trọng nhất trong đời tôi hiện nay. Đây là nơi mà người ta đến chỉ bởi vì họ muốn được ở đó. Có bao nhiêu chỗ mà chúng ta phải đến vì một lý do nào đó? Phyllis Culham, là người tu theo Dòng Tiếp Hiện của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, đã tạo thuận duyên cho tôi. Phu quân của bà là Bob Ertman là tu sĩ thuộc Dòng Thiền Tào Động và cũng là bậc thầy của Thơ Hài Cú. Tôi nhận lấy mọi điều mà tôi nghe được từ tăng thân và ứng dụng nó vào đời sống của tôi hay vào việc dạy học của tôi.

Khi bà nhập chúng trong tăng thân, thì sự tu tập của bà như thế nào?

Chúng tôi bước vào im lặng và cởi giày ra. Có những chiếc gối để trên sàn nhà, nhưng bởi vì tôi hơi già cả một chút, nên tôi được cho ngồi ghế. Và rồi chúng tôi chỉ im lặng trong giây lát cho đến khi vị lãnh đạo đánh chuông. Bà ấy giảng, và rồi chúng tôi thực tập thiền trong 20 phút.

Sau đó, mọi người có thể đi vòng quanh phòng và xưng tên và trình bày thiền đối với họ như thế nào. Khi chúng tôi sắp sửa nói điều gì, chúng tôi cúi đầu và cúi chào. Trong cách đó, chúng tôi không chen lấn nhau. Chắc chắn nó không giống một khóa trị liệu và cũng không giống một câu lạc bộ chơi game. Sự im lặng thật tuyệt vời, và chúng tôi quý trọng mọi thứ đã nói.

Tôi đã đọc một bài viết trước đây nói rằng bà đã tìm ra Phật Giáo sau khi chồng bà qua đời bởi vì bà lúc đó đi tìm một người nào đó để lấp khoảng trống mà ông ấy để lại. Bà có thể kể cho tôi nghe thêm về cách làm sao tăng thân hỗ trợ bà được không?

Lần đầu tiên khi tôi mới đến, tôi cảm thấy như cái chết [của chồng tôi] đã cắt đứt tôi ra làm đôi, nhưng tôi đã vào một nơi mà người ta làm cho điều đó thành bình an. Tôi đã làm sạch chính mình với nước mắt. Họ nhận biết nỗi buồn đau của tôi, nhưng không ai chìu chuộng hay đồng cảm với tôi. Đó không phải là tất cả.

Người ta tìm thấy họ là ai bằng việc viết lách, và tôi gọi đó là thơ.

Tôi thật sự muốn thực hiện một cuộc hành trình với người nào đó, cùng người, từ tuần này sang tuần nọ. Tôi muốn người ta sẽ thay đổi theo tôi và tin tưởng những gì tôi nói, mà cũng là những gì chồng tôi đã nói. Tôi nghĩ chỉ có một người trên thế gian này giống ông ấy, nhưng tôi đi tìm và tôi đã gặp 30 người lấp đầy vào chỗ ông ấy.

Bà có thực tập thiền?

Tôi có. Tôi có thể ngồi một mình từ 10 hay 20 phút một lúc. Tôi thực sự là người tham công tiếc việc; tôi thức dậy lúc 5 giờ sáng để làm việc. Tôi yêu thích nó và tôi thu nạp năng lực từ nó, vì thế làm việc không còn là thách thức đối với tôi nữa. Mục đích của tôi là thức dậy và thực tập thiền một tiếng đồng hồ, nhưng hiện nay tôi đang làm điều đó trong nhiều lợi lạc nhỏ hơn suốt cả ngày, mà tôi nghĩ là được rồi với tôi. Nếu tôi sắp đi đến chỗ nào đó trong vòng 20 phút, tôi ngồi xuống 15 phút trước khi đi. Nếu tôi có 5 phút trong khi chờ đợi thức ăn đang nấu, tôi ngồi xuống. Tôi có thể đi vào bên trong chính mình và an trú giải thoát bên trong ngay nơi đó.

Bà đã có nói rằng khi bà tìm ra tăng thân Phật Giáo này thì cái chết của chồng bà đã làm bà tan nát. Theo lẽ thường, khi chúng ta trải qua đau buồn, chúng ta giả định rằng vào một lúc nào đó nó biến mất. Một cách riêng tư, Phật Giáo đã dạy tôi rằng sự đau khổ luôn luôn có mặt – nó có thể tiêu tan hay trở lại trong những cơn sóng gió. Một trong những điều mà chúng ta có thể làm là làm việc với nó, ngồi xuống với nó, và rồi giải phóng nó. Khi nó trở lại nữa, chúng ta cũng làm đi làm lại giống như vậy cho đến khi chúng ta bình an với nó.

Tôi nghĩ điều đó là chính xác. Tôi nghĩ việc ngồi xuống với nó là chính yếu. Bây giờ tôi biết rằng tôi có thể kham nhẫn và sống với tất cả nỗi đau khổ của tôi. Tôi cố nói với các con và cháu tôi rằng mỗi khoảnh khắc đều là nơi an ổn. Điều sắp đến phía trước bạn có thể không thực, và điều đã đi qua phía sau bạn mà bạn đang suy nghĩ tới có thể không thực. Những nơi đó đều là những chỗ bất an, nhưng nơi mà bạn đang hiện trú bây giờ là nơi an ổn. Đó là nơi tôi đi. Nó rất rất tốt cho tâm lý của tôi.

Tôi đã đọc rằng bà dạy cho các học trò thi ca của bà suy nghĩ về cuộc đời của họ như những tòa nhà nơi mà mỗi tầng lầu là một năm khác. Họ có thể lấy cảm hứng từ những tầng lầu đó, đặc biệt từ những cơn đau và những vết thương quá khứ. Bà có thể kể cho tôi nghe bằng cách nào bà đi tới kỹ thuật đó?

Tôi có một ông thầy dạy về tâm linh là người đã có lần tưởng tượng ra ẩn dụ đó. Ông ấy nói rằng cuộc đời của chúng ta giống như những tòa nhà và vào cuối đời chúng ta sẽ lên tới mái nhà và một chiếc trực thăng có thể quét chúng ta đi và rồi tòa nhà đó sẽ đổ nát. Nhưng, cho đến lúc đó, mỗi tầng lầu vẫn còn nguyên vẹn. Đối với một cô giáo dạy thi ca, thì điều đó giống như một mỏ vàng.

Mỗi một trong những bài tập dạy học của tôi là về lòng nhân đạo. Chúng không phải về thi ca. Người ta tìm ra họ là ai qua việc viết lách, và tôi gọi đó là thơ. Khi tôi dạy, tôi thường bắt đầu lớp học với việc thực hành thiền. Điều đó nghe có vẻ như khùng điên để bắt đầu việc dạy bằng cách đó, nhưng tôi yêu cầu các học trò chiều lòng tôi. Cho đến nay, mọi người đều hợp tác.

Bà có xem thơ như là một loại thiền?

Tăng thân của chúng ta dựa vào những lời dạy của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh. Ông ấy nói rằng ông thực hành thiền để làm thơ. Bạn không thể làm thơ trong vội vàng và bạn không thể đọc thơ trong hối hả, bởi vì bạn không thể mơ mộng trong hấp tấp. Thơ là đem mơ mộng lên trang giấy – nó làm chúng ta lắng dịu.

Độc giả có thể vào trang mạng này để đọc nguyên tác Anh ngữ:

https://www.lionsroar.com/marylands-poet-laureate-on-how-poetry-slows-you-down/   

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.