Hôm nay,  

Muốn Là Ngoại Tệ Dự Trữ

15/04/201500:00:00(Xem: 5308)
...“dê cỏn húc dậu thưa”...

Qua dự án thành lập Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Cơ sở Á châu, gọi tắt là AIIB, lãnh đạo Bắc Kinh có thể còn mong thay thế hệ thống do Tây phương lập ra bằng một hệ thống mới, trong đó, đồng Nguyên của họ sẽ giữ vị trí trọng yếu với hy vọng sẽ thay thế đồng Mỹ kim khi sản lượng kinh tế của Trung Quốc sẽ vượt Hoa Kỳ. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu vì sao đấy chỉ là một ảo vọng nguy hiểm ngay cho kinh tế Trung Quốc. Xin quý thính giả theo dõi cách phân tích của chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa trong cuộc trao đổi do Việt Long thực hiện sau đây.

Việt Long: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, khi Bắc Kinh đề nghị lập ra Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Cơ sở Á châu, gọi tắt là AIIB, với số vốn 100 tỷ và tính đến ngày 14 thì đã có 50 nước hưởng ứng, thì dư luận thế giới cho rằng các nước này đã công nhận vị thế kinh tế của Trung Quốc, mặc dù Hoa Kỳ vẫn muốn cưỡng chống. Bên cạnh sự kiện đó, người ta còn cho là Bắc Kinh đang muốn xây dựng một kiến trúc tài chính quốc tế khác để dần dần thay thế hệ thống do Tây phương thành lập sau Đệ nhị Thế chiến và muốn đồng Nhân dân tệ của họ sẽ thành ngoại tệ dự trữ có thể cạnh tranh rồi thay thế đồng đô la của Hoa Kỳ. Ông nghĩ thế nào về chuyện này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho là trong vụ ngân hàng AIIB, người ta bị nhiều hiểu lầm tai hại.

- Trước hết, hàng năm các nước Á châu cần ngàn tỷ đô la để xây dựng hạ tầng cơ sở, chứ không chỉ là 800 tỷ theo một báo cáo từ năm năm trước của Ngân hàng Phát triển Á châu ADB. Trong điều kiện đó và sau khi bị lỗ nặng vì tự mình thực hiện các dự án hạ tầng trên thế giới, Bắc Kinh muốn lập ra một cơ chế quốc tế với sự hùn vốn và đóng góp kỹ thuật của các nước khác thì đấy cũng là điều tốt. Đáng lẽ nên khéo hướng dẫn việc này cho mối lợi chung của Châu Á thì Chính quyền của Tổng thống Barack Obama lại muốn cản mà không thành, và gây ra một ấn tượng xấu về một nước Mỹ già nua và bất lực trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Thật ra, đây là một ấn tượng sai.

Việt Long: Xuyên qua vụ AIIB, nhiều người cho là Trung Quốc còn có tham vọng thay thế Hoa Kỳ với một đồng bạc có thể cạnh tranh với đồng Mỹ kim. Ông thấy rằng việc ấy có khả thi không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ đến câu “dê cỏn húc dậu thưa” của bà Hồ Xuân Hương và xin riêng nói về chuyện ấy dù sẽ phải đề cập tới một số khía cạnh khá chuyên môn.

- Từ nhiều năm qua, một số quốc gia đã nêu vấn đề về vị trí quá lớn của Mỹ kim trong hệ thống tài chính được thiết lập từ 70 năm trước. Đấy là quan điểm của Trung Quốc, Ấn Độ, Liên bang Nga hay Brazil. Chúng ta có thể hiểu tâm lý đó của các nước đi sau để theo kịp và vượt qua các nước công nghiệp hóa đi trước với ảo tưởng là mình đã đủ mạnh để phát huy ảnh hưởng và bảo vệ quyền lợi. Trong số đó, dĩ nhiên là có Trung Quốc với nền kinh tế có sản lượng hạng nhì thế giới sau Hoa Kỳ. Nhưng không phải ngẫu nhiên mà mấy nước có tham vọng đó đều đang bị khủng hoảng!

- Bước sang vai trò của đồng Nguyên thì ngoài ảo tưởng, Bắc Kinh còn mắc bệnh quên trí nhớ. Hoa Kỳ từng có nền kinh tế dẫn đầu thế giới từ những năm 1870 về sau mà các nước khi ấy vẫn dùng đồng Bảng của Anh, Phật lăng của Pháp và đồng Đức Mã của Đức làm ngoại tệ chính để thanh toán các giao dịch. Phải năm chục năm sau, và khi nước Mỹ đã lập ra hệ thống Ngân hàng Trung ương độc lập cách nay trăm năm, thì đô la mới thay thế dần các ngoại tệ kia của u Châu và lên tới vị trí có thể gọi là thống trị từ sau Thế chiến II. Cho nên, sức mạnh kinh tế không nhất thiết làm cho đồng bạc của mình trở thành ngoại tệ thông dụng nhất.

- Bắc Kinh chưa có sức mạnh kinh tế ấy và dù đã cố vận động thì đồng bạc của họ vẫn chưa được sử dụng một cách phổ biến. Mãi tới cuối năm ngoái thì đồng Nguyên mới là một trong năm ngoại tệ chính của thiên hạ mà chỉ để thanh toán có 2,2% lượng giao dịch giữa các nước, so với tỷ lệ 45% của Mỹ kim hay 28% của Euro, thế rồi qua Tháng Hai thì tỷ lệ sử dụng đồng Nguyên lại còn sụt tới số 1,8%!

Việt Long: Xin hỏi ông một câu rất chuyên môn là thế nào là một ngoại tệ phổ biến và vì sao đồng Nguyên chưa được sử dụng nhiều hơn dù Trung Quốc đã giao dịch với nhiều nước trên thế giới?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đồng bạc là phương tiện thanh toán nghiệp vụ mua bán giữa các nước, cho nên phải là một đơn vị khả tín, đáng tin, vì giá trị tự nhiên của nó trên thị trường, chứ không vì một quốc gia hay chính quyền nào đó tự tiện tuyên bố là nó đáng giá chừng này chừng nọ. Theo tiêu chuẩn ấy thì đồng tiền của quốc gia nào giao dịch nhiều với các nước thì dễ thành thông dụng hơn.

- Thứ nữa, đồng bạc cũng là một phương tiện bảo vệ giá trị của tài sản nên chỉ trở thành ngoại tệ dự trữ, là được cất giữ trong lâu dài, nếu được các nước hay nói chung là thị trường tin cậy. Một yếu tố tin cậy là không bị chính quyền phát hành ra đồng bạc tự ý can thiệp để thay đổi giá trị.

- Cứ theo các tiêu chuẩn đó thì đồng Nguyên chưa thể là ngoại tệ phổ biến và càng khó là ngoại tệ dự trữ cho dù kinh tế Trung Quốc có thể vượt sản lượng của Hoa Kỳ, là điều chưa chắc. Nếu lại duy ý chí vì tưởng sẽ bành trướng ảnh hưởng nhờ đồng Nguyên là ngoại tệ dự trữ thì Trung Quốc càng sớm bị khủng hoảng. Nhìn từ giác độ chủ quan dễ hiểu của một người Việt Nam trước sự hung hăng của Trung Quốc, tôi thầm mong là Bắc Kinh sẽ nuôi tham vọng đó mà chóng tan tành!

Việt Long: Chúng ta bắt đầu đi vào phần hấp dẫn của đề tài. Vì sao ông cho rằng đồng bạc của Trung Quốc chưa thể là một ngoại tệ dự trữ có giá trị phổ biến?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin đi vào một số chi tiết chuyên môn và mong thính giả của chúng ta cùng nắm vững để hiểu ra thực tế ở ngoài đời.

- Trước hết, nếu ta tin là một đồng bạc nào đó, giả dụ là đồng Nguyên, có hy vọng thành ngoại tệ dự trữ đáng tin cho tương lai thì ta sẽ mua đồng Nguyên về trữ trong nhà hay trong ngân hàng để bảo vệ giá trị tài sản của mình. Khi ấy, ta mua bằng gì, ở đâu? Ta mua bằng đồng bạc của mình ở nơi có bán đồng Nguyên, và sau đó, đồng bạc ấy của mình sẽ chạy qua bên Tầu. Kết quả của những tính toán như vậy trên thị trường là đồng Nguyên sẽ lên giá vì được nhiều người ưa và Bắc Kinh thì ôm vào một số đồng bạc của thiên hạ, thường thì là những tờ giấy nợ vì thật ra đồng bạc là tờ giấy nợ có in trên đó sự cam kết thanh toán của quốc gia phát hành. Nhìn vào tờ đô la thì thấy liền.

- Từ chuyện ấy ta có thể suy ra một vấn đề rất nhỏ sau đây. Có những nơi nào trên địa cầu mà nhà đầu tư có thể thoải mái gõ cửa mua đồng Nguyên của Tầu cũng dễ như đổi đồng đô la của Mỹ? Câu trả lời là rất ít! Vài chục năm nữa thì may ra.

- Chuyện thứ hai là nếu thiên hạ chiếu cố đồng Nguyên khiến đồng tiền lên giá thì hàng của Tầu cũng lên giá và khó cạnh tranh với bên ngoài. Trung Quốc vẫn quá lệ thuộc vào xuất khẩu, lại chưa dám thả nổi đồng bạc để được giao dịch tự do, thì nói gì đến vai trò ngoại tệ dự trữ của thiên hạ?

- Lên đến tầng cao hơn thì cả triệu nghiệp vụ mua bán ấy cần một mạng lưới trung gian thanh toán và kết quả sau cùng tập trung về các ngân hàng trung ương là tổ chức tài chính then chốt có thẩm quyền điều tiết lượng tiền giao dịch này. Các ngân hàng trung ương, kể cả của Hoa Kỳ, u Châu hay Trung Quốc, thì nhìn vào cái mà ta gọi là “tài khoản vãng lai” hay “cán cân chi phó”. Nếu thiên hạ ham đồng bạc của mình mà mua về nhà thì điều ấy có nghĩa là tư bản của mình lặng lẽ chảy ra ngoài, làm cán cân vãng lai của mình bị thâm hụt. Người ta cứ than Hoa Kỳ bị thiếu hụt chi phó, là tư bản vào ít ra nhiều, mà không thấy rằng đấy là cái giá phải trả khi đồng Mỹ kim là ngoại tệ dự trữ phổ biến!

Việt Long: Ông nêu ra một chi tiết lý thú. Thế nếu Bắc Kinh mở rộng mạng lưới giao dịch để đồng Nguyên dễ được trao đổi thì sẽ có một vấn đề về tài khoản vãng lai. Khi ấy thì họ có thể làm gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi ấy họ sẽ gặp vấn đề tam tứ nan chứ chẳng phải là lưỡng nan!

- Một là Bắc Kinh phải can thiệp vào thị trường ngoại hối để đồng bạc khỏi lên gía mỗi khi được thiên hạ mua vào. Khi can thiệp như vậy thì mặc nhiên làm đồng bạc mất chức năng phản ảnh quy luật cung cầu. Chẳng ai muốn mua tiền của Tầu về nhà khi đảng Cộng sản đằng sau Nhà nước và Ngân hàng Trung ương họp kín rồi bất ngờ ra lệnh có ảnh hưởng bất lợi cho tài sản của thiên hạ!

- Hai là Bắc Kinh phải giữ thế vô tư như nhà cái trong sòng bạc, là không can thiệp vào trị giá của các đồng bạc được trao đổi hàng ngày hàng giờ hàng phút trên các sòng bạc quốc tế. Khi ấy, đồng Nguyên mà lên giá vì được các nước mua vào sẽ dẫn đến một hiện tượng kế toán là số thặng dư của tài khoản vãng lai cứ giảm dần và mức thiếu hụt của cán cân tư bản lại tăng. Ít ai chú ý đến chuyện kế toán rắc rối này mà chỉ phản ứng theo cảm quan là Bắc Kinh muốn làm gì cũng được! Nếu họ lại tưởng rằng khôn mà cứ để Ngân hàng Trung ương ngồi yên nhưng ra lệnh cho các tập đoàn quốc doanh kín đáo mua vào tài sản của xứ khác để giảm đà lên giá của đồng Nguyên thì vẫn là có can thiệp vào thị trường, nghĩa là nhà cái thanh toán bằng bạc giả.

Việt Long: Câu chuyện này của chúng ta quả là phức tạp đến bất ngờ chứ không đơn giản là việc Bắc Kinh có thể tự tung tự tác với khối dự trữ ngoại tệ gần bốn ngàn tỷ đô la của họ có phải vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng chúng ta không quên hàng ngày hàng giờ các nước trao đổi với nhau trên thị trường ngoại hối một lượng tiền tương đương hơn năm ngàn tỷ đô la. Và ngoài thị trường có sức tiếp nhận cả trăm tỷ bạc chảy ra chảy vào mỗi giờ mà kinh tế không bị chấn động là nước Mỹ thì các trung tâm giao dịch sầm uất nhất vẫn nằm ở ngoài Trung Quốc.

- Sau cùng, cả mạng lưới của các ngân hàng hay công ty thanh toán việc giao dịch ấy đều được công khai hóa, với tiêu chuẩn kế toán minh bạch và kiểm soát chặt chẽ, được mọi quốc gia cùng chấp nhận. Bắc Kinh thì chưa đi tới trình độ tổ chức ấy mà mọi chi tiết liên hệ đến các doanh nghiệp nhà nước của họ đều là bí mật quốc gia được luật pháp lạc hậu của họ bảo vệ.

Việt Long: Kết luận ở đây là khi nào thì Bắc Kinh có hy vọng phát triển đồng bạc của họ thành một ngoại tệ dự trữ phổ biến, chứ chưa nói đến việc trở thành ngoại tệ sẽ thay thế đồng đô la?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau khi dẫn đầu kinh tế thế giới, Hoa Kỳ đã mất nửa thế kỷ rồi mới thấy Mỹ kim lên tới vị trí ngoại tệ giao hoán thông dụng. Trung Quốc chưa dẫn đầu kinh tế thế giới mà nay lại còn bị nguy cơ khủng hoảng. Nếu họ nóng vội can thiệp vào thị trường bằng sự chủ quan duy ý chí thì sẽ khủng hoảng còn sớm hơn nữa. Cho nên thế giới đừng vội lo về sức mạnh kinh tế của Trung Quốc mà nên lo về hậu quả của một hiện tượng đã từng xảy ra nhiều lần cho xứ này, là “khi nước Tầu có loạn!”

Việt Long: Xin cảm tạ ông Nghĩa về bài phân tích lý thú này.

Ý kiến bạn đọc
15/04/201519:16:37
Khách
Tàu cộng ngày nay củng giống như chuyện ngụ ngôn"Con ếch muốn to bằng con bò" con ếch cố phình hơi cho lớn bằng con bò, cuối cùng thì vở tan xác
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.