Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Mạc Đỉnh Chi

26/08/201400:00:00(Xem: 3585)

MẠC ĐĨNH CHI
(1272 - 1346)

Mạc Đĩnh Chi, quê làng Lũng Động, huyện Chí linh, Hải Dương, nhà nghèo, cha mất sớm, ở với mẹ luôn hiếu hạnh và hầu hạ thầy là Chiêu Quốc Công rất chu đáo. Ông có hình hài nhỏ nhắn, nhưng lanh lẹ, rất thông minh. Tương truyền, ông sinh nhằm ngày thân, tháng thân, năm thân, trông dáng dấp giống khỉ. Năm 1304, ông thi đậu Trạng nguyên (32 tuổi), nhưng vua Trần nhìn tướng xấu xí, nên không hài lòng. Ông dâng vua bài: "Ngọc tỉnh liên phú" (tự ví mình như hoa sen ở giếng ngọc):

Giống quý ấy ta đây có sẵn
Tay áo này ta chứa đã lâu
Phải đâu đào, lý thô màu
Phải đâu mai trúc dãi dầu tuyết sương
Cũng không phải tăng phường câu ký
Cũng không là lạc thúy mẫu đơn
Cũng không là cúc là lan
Chính ta sen ở giếng vàng đầu non

Vua thấy văn hay chữ tốt, cho ông đậu Trạng nguyên và coi sóc văn khố quốc gia, sau đấy được phong Tả bộc xạ (như thượng thư). Ông đã đi sứ qua Tàu hai lần, lần nào cũng đối đáp câu đối, hoặc làm thơ rất lưu loát và luôn gìn giữ quốc thể cho Đại Việt.

1- Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi đi sứ Tàu, đến cửa khẩu bị trễ giờ, quan giữ ải bảo phải chờ sáng hôm sau, mới được qua. Thấy sứ bộ ta cứ biện bạch, quan giữ ải bảo đối được câu đối thì được qua ải ngay, liền ra đề: "Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan". Nghĩa là: "Tới cửa ải trễ, cửa ải đóng, mời khách qua đường cứ qua". Một vế ra hóc búa đến 4 chữ quan và 3 chữ quá; rất khó, nhưng Mạc Đĩnh Chi nhanh nhẹn đối lại:"Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối". Vế đối của ông có 4 chữ đối và 3 chữ tiên, rất chỉnh với đề đã ra. Quan giữ ải nghe xong, rấtù phục tài của ông, liền mở cửa ải, để sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi qua biên giới.

2- Mới đến Tàu, Trạng cỡi lừa ngắm cảnh kinh thành, vô tình đầu lừa chạm phải đuôi ngựa một quan Tàu đang cỡi phía trước, quan Tàu bực mình và xem thường ông, liền ra câu đối: "Xúc ngã kỵ mã, Đông di chi nhân dã, Tây di chi nhân dã?". Nghĩa là: "Chạm ngựa ta đang cỡi, là rợ phương Đông, hay rợ phương Tây", câu này lấy ở sách Mạnh Tử, dùng chữ Đông di để chỉ kẻ mọi rợ. Trạng cảm thấy bị xúc phạm trắng trợn, nên nghĩ phải dằn mặt bọn quan lại Tàu, liền đối lại: "Át dư thừa dư, Nam phương chi cường dư, Bắc phương chi cường dư?" Nghĩa là: "Ngăn lừa ta cỡi, hỏi người phương Nam mạnh, hay người phương Bắc mạnh". Quan Tàu vừa phục vừa tức, vì Trạng lấy chữ Nam phương trong sách Trung Dung, lời lẽ hào hùng, có ý bảo rằng chưa chắc người phương Bắc mạnh hơn người phương Nam.

3 - Vua Nguyên ở nước Tàu nghe tài ông, vua ra câu đối: "Nhật hỏa, vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố". Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy mặt trăng. Vua Nguyên tự ví mình là mặt trời, Việt Nam là mặt trăng. Ông ung dung thẳng thắn đối lại: "Nguyệt cung, tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô". Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời. Vua Nguyên vừa thẹn vừa giận, nhưng lại khó trách.

4 - Từ đó, các quan Tàu vừa phục tài, vừa căm giận ông, nên trả đũa, ra câu đối: "vy, ly, võng, lượng tứ tiểu quỷ". Nghĩa là: "Quỷ vy, quỷ ly, quỷ võng, quỷ lượng là 4 thằng quỷ". Với 4 chữ này đều có chữ quỷ, có ý chê ông như quỷ và rất khó đối lại. Nhưng Trạng vẫn giữ điềm đạm, mỉm cười đáp ngay: "Cầm, sắt, tỳ, bà bát đại vương" Nghĩa là: Ta chẳng kém ai, cũng là bậc đại vương.

5 - Các quan Tàu, đuối lý, muốn làm mất mặt Trạng phải chê giọng nói của Đại Việt, may ra mới thắng. Họ ra câu đối: "Quých tập chi, đầu đàm Lỗ Luận, tri tri vi tri chi, bất tri vi bất biết". Nghĩa là: "Chim đậu đầu cành, đọc sách Lỗ Luận, biết thì bảo là biết, chẳng biết bảo chẳng biết, đó là biết đó"ù. Quan Trạng cảm thấy bị xúc phạm đến danh dự nòi giống, bọn quan Tàu chơi âm tri tri, để chỉ tiếng nói của ta ríu rít như chim. Nên Trạng thẳng thừng đối lại: "Oa minh trì thượng độc Châu Thư, lạc dữ độc lạc nhạc, lạc dữ chúùng lạc nhạc, thục lạc". Nghĩa là: "Chẫu chuộc trên ao đọc sách Châu Thư, cùng ít người vui nhạc, cùng nhiều người vui nhạc, đằng nào vui hơn". Trạng đã dùng âm lạc nhạc, để nhạo lại người Tàu, có giọng nói ồm ộp như chẫu chuộc.

6 - Gặp lúc Công chúa của vua Tàu mất, họ mời Trạng đọc một bài văn tế, các quan Tàu lại chơi hiểm, đưa giấy cho ông có 4 chữ "nhất" là 4 chữ "một". Ông không lúng túng mà ung dung hạ bút:

Nguyên văn:

Thanh thiên nhất đóa vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Ngọc uyển nhất chi hoa
Giao trì nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa
tàn, nguyệt khuyết!

Nghĩa là:

Trời xanh một đám mây.
Lò hồng một giọt tuyết.
Vườn thượng uyển một cành hoa.
Cung quảng hàn một vần nguyệt.
Than ôi! Mây tán, tuyết tiêu, hoa tàn, trăng khuyết!

7 - Có một lần, Thừa tướng của Tàu mời ông viếng nhà, ông thấy chim sẻ đậu trên cành trúc, giơ tay chụp bắt, nhưng đấy là chim thêu trên bức trướng giống y như thật. Thừa tướng và các quan cười ồ, Mạc Đĩnh Chi, biết bị lầm, nhưng không bối rối, lấy bức trướng ném xuống đất, giải thích: "Cành trúc tượng trưng người quân tử, chim sẻ tượng trưng kẻ tiểu nhân, chim sẻ đậu trên cành trúc, có hàm ý kẻ tiểu nhân đứng trên người quân tử, không hợp với đạo lý, nên ta phải bỏ nó đi". Các quan Tàu biết Trạng biện bạch, nhưng đều phục tài.

8 - Lần khác, sứ giả các nước cùng vịnh bài "phiến minh". Ông nhìn theo quản bút sứ Triều Tiên mà hiểu ý hai câu:"Nóng nực oi ả, thì như Y Doãn, Chu Công" (người được trọng dụng) "Rét buốt lạnh lùng, thì như Bá Di, Thúc Tề" (người bị ruồng bỏ). Ông nhanh trí viết: Chảy vàng, tan đá, trời đất như lò, người bấy giờ là Y-Chu đại nho. Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, người bấy giờ là Di-Tề đói xo. Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng người là thế ru!". Vua Tàu xem bài của ông vừa nhanh vừa hay, tặng ông chức "Lưỡng quốc Trạng nguyên". Ông làm quan thanh liêm nên vua quan Đại Việt đều hâm mộ.

Cảm phục: Mạc Đĩnh Chi

Tạo hóa sản sinh, Mạc Đĩnh Chi
Hiếu trung gìn giữ, miệt mài thi
Văn chương lỗi lạc, dâng liên phú
Luận thuyết rõ ràng, chứa lễ nghi
Đi sứ, văn thơ thâm thúy nghĩa
Phục tài, quan Hán nể nang vì
Thanh liêm tận tuỵ, lo non nước
Lưỡng quốc trạng nguyên, sử sách ghi

Nguyễn Lộc Yên

Ý kiến bạn đọc
26/08/201413:41:56
Khách
Bài viét về hiền tài nuóc nhà tuỵet quá! Không biét các em nhỏ ỏ Vn có đuọc hoc sử với các bài viét có giá tri cao như bài này không?
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công...
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, cần phải phân loại, xác định rõ ràng các loại “địch” để tìm cách đối phó hoặc vận động gây cảm tình làm đồng minh, tùy loại địch. Mọi người thường nói, “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” là vậy.
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.