Hôm nay,  

Bản Tổng Kết Của Một Cố Vấn Phỏng Vấn Henry Kissinger Do Christoph Amend Và Matthias Nass Thực Hiện

05/01/201100:00:00(Xem: 15513)

Bản Tổng Kết Của Một Cố Vấn Phỏng Vấn Henry Kissinger Do Christoph Amend Và Matthias Nass Thực Hiện

Đỗ Kim Thêm dịch
Trong khi trả lời cho tuần báo Die Zeit của Đức về vấn đề Irak, Henry Kissinger đã có đề cập đến Việt Nam. Ông cho biết là chưa có một tác phẩm nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam nào đạt được tính khách quan. Ông đã tin là Bắc Việt sẽ tôn trọng hoà ước, Nam Việt Nam tiếp tục tồn tại và miền Bắc không gây xâm lăng làm sụp đổ miền Nam. Việc ném bom Kampuchia đối với ông cũng không là một sai lầm. Ông cho rằng chính trị quốc nội Mỹ, đặc biệt các phong trào phản chiến, đã làm thay đổi phương sách ngoại giao của Mỹ. (Lời ngưòi dịch)
Thưa Tiến sĩ Kissinger, trên thành cửa sổ bên cạnh chỗ ngồi nơi ông làm việc có đặt một tấm hình được lồng khung chụp ông và Tổng thống Mỹ, bên dưới có dòng chữ viết tay đề tặng: „Tặng Henry, với lòng biết ơn về những lời khuyên đáng tin cậy, Gorge W. Bush“.  Chúng tôi phải hình dung những lời khuyên của ông như thế nào" Ông có gặp tổng thống thường xuyên không"
Cứ khoảng bốn đến sáu tuần là chúng tôi nói chuyện với nhau. Những cuộc gặp gỡ này không thường xuyên. Chúng tôi nói chuyện mặt đối mặt thôi, không có văn bản kèm theo. Và trước hết chúng tôi ít khi nói chuyện về thời sự chính trị.
Vậy thì các ông nói về những chủ đề gì "
Chúng tôi nói chuyện về những chiến lược tương lai, về những sự phát triển trong lãnh vực ngoại giao, về mối quan hệ với các nước khác, thí dụ như với Trung Hoa, Hàn Quốc, Nga và Iran. Hầu như chúng tôi không hề nói chuyện về các đề tài tuần tới chúng ta phải làm gì ở Irak. Tôi hy vọng là ông hiểu rằng tôi không có một chức vụ chính thức nào. Theo kinh nghiệm của tôi mỗi vị tổng thống sớm hay muộn gì cũng tìm ra người giúp ông ta để triển khai một viễn cảnh mang tính triết lý và ý niệm.
Ông làm việc này cho Georg W. Bush"
Còn nhiều người khác nữa. Tổng thống có đủ người chung quanh ông ta để lo những công việc hàng ngày. Ông cần đến một vài người không thuộc bộ tham mưu để có thể thảo luận về đường lối chung.
Ông nhận xét thế nào về Tổng thống"
Người châu Âu và New York nhìn ông như một nhân vật biếm họa. Nhưng cần phải nói rõ hơn: Năm 2000 tôi đã ủng hộ John McCain, không ủng hộ Georg W. Bush. Dạo đó tôi không hề quen cá nhân ông Bush. Hiện nay tôi có thể nói là: Đối với người châu Âu Bush là người khó hiểu, bởi vì ông ta xuất thân từ một tiểu bang có ít các mối quan hệ quốc tế. Ông ta là một người yêu nước nồng nàn và có ý thức trách nhiệm cao. Ông ta thông minh, cho dù khi nhiều người phê bình ông khẳng định điều ngược lại. Ông ta là một ngưòi biết đặt những câu hỏi hay. Ông ta hiểu rõ rằng cái gọi là thách thức cuả bọn khủng bố là một hiện tượng toàn cầu. Ông ta nhận trách nhiệm về những quyết định của mình. Ông hiểu rõ vấn đề. Ông có nhiều khó khăn tìm những cộng sự viên để theo đuổi mục tiêu của ông về phương cách thuyết phục, đặc biệt những người nghĩ ra những chiến thuật thích nghi với văn hoá của những xã hội khác.
Một mặt, hiện nay nước Mỹ là siêu cường duy nhất với sự chế ngự về chính trị, kinh tế và quân sự không thể nào so sánh được. Nhưng mặt khác, hình ảnh của nước Mỹ lại xấu hơn so với trước đây. Ông giải thích thế nào về sự tương phản này"
Chúng ta đang sống trong một thời đại phức tạp. Đúng, nước Mỹ là siêu cường duy nhất. Nhưng mà nhiều vấn đề của thế giới hiện đại không thể giải quyết bằng giải pháp quân sự. Chính vì thế mà một nước như Mỹ có thể có quyền lực mà đồng thời cũng không gây những ảnh hưởng tương xứng. Phong trào chống Mỹ như ông mô tả chỉ có phát triển mạnh ở Âu Châu và Trung Đông. Phong trào này không đủ mạnh ở Trung Hoa, Nhật Bản và Nam Dương.
Ở Âu Châu phong trào này chưa bao giờ mạnh hơn so với bây giờ.
Nước Mỹ vẫn còn coi mình như là một quốc gia vào thế kỷ 19, một đất nước bảo vệ quyền lợi của riêng mình. Ở Âu châu tuy vẫn còn nhiều quốc gia, nhưng quốc gia  không còn là điểm đặc trưng nhận dạng quan trọng nhất cho con người sống ở đó nữa.
Ông nghĩ gì khi nhận xét như vậy" Người Pháp, người Ý, người Đức, nhiều người sẽ phản bác ý kiến cuả ông.
Nhưng mà có lẽ họ sẽ không phản bác, một khi vấn đề được đặt ra là liệu một chính quyền có thể đòi hỏi dân chúng hy sinh cho chính sách của mình hay không - kể cả ở chính sách đối nội lẫn đối ngoại. Ở Âu châu hoà bình là mục tiêu quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại, trong khi đó ở Mỹ nó chỉ là một mục tiêu quan trọng trong nhiều mục tiêu khác. Nhưng dĩ nhiên phương sách của chính quyền Bush trong nhiệm kỳ đầu tiên đã tạo ra quá nhiều vấn đề làm cho phong trào chống Mỹ gia tăng trên toàn cầu.
Lý do quan trọng nhất trong đó là chiến tranh tại Irak.
Tôi cho rằng chiến tranh Irak là biểu tượng cho sự phát triển này. Cho dầu cuộc chiến này là lý do chủ yếu cho thái độ chống Mỹ, chúng ta không thể giải quyết vấn đề bằng cách đơn giản là rút quân ra khỏi Irak. Ngay cả khi quân đội Mỹ rút toàn bộ ra khỏi nước này, cuộc chiến vẫn tiếp tục. Và những xung đột tại Trung Đông cũng không giải quyết. Điều tiên quyết là phải có một giải pháp chính trị. Dẫu có những bất đồng quan điểm trước đây, Mỹ và Âu châu có một quan tâm chung là tìm ra một kết quả về chính trị.
Ngay từ đầu chính ông đã ủng hộ chiến tranh Irak.
Tôi ủng hộ quyết định tấn công Irak, đúng. Nhưng mà tôi cũng công khai phê bình các quyết định khác. Tôi đồng ý tấn công để lật đổ Saddam, và sau đó thì toàn bộ việc điều hành phải để cho quốc tế làm như trước đây đối với Balkan. 
Ngay trước khi khởi đầu cuộc chiến thì đã rõ là việc này không thực hiện được, Mỹ và Anh đã đứng ở một vị thế khá đơn độc.
Tôi không đồng ý điểm này. Vào tháng 6 năm 2003, nhiều quốc gia trong đó có Pháp và có lẽ cả Ấn Độ đều sẵn sàng tham dự với điều kiện là một can thiệp quốc tế phải được thành hình. Tình hình phát triển khác đi. Tôi cho là không thể nào đạt được việc mà chúng ta có thể dân chủ hoá Irak trong ngắn hạn, điều mà có thể tìm sự ủng hộ cúa công luận tại Mỹ. Tôi không bao giờ tin là một chính quyền quân sự có thể thiết lập tại Irak mà không dẫn tới những phong trào kháng chiến.
Nếu hiện nay chúng ta lập một bản tổng kết, chúng ta phải nói là tổn thất lên quá cao. Và bây giờ thì sao" Nếu Mỹ ở lại Irak thì những thành công quân sự cũng không được nhiều người đánh giá cao. Nhưng nếu Mỹ rút ra, điều này sẽ gây bất ổn tại Libanon, Jordanie va Saudi-Arabien. Bọn khủng bố sẽ di chuyển căn cứ tới Irak, đây là khả năng có thể xảy ra. Và các quốc gia lân cận như Thổ Nhĩ Kỳ và Iran sẽ là mối quan tâm của họ tại Irak, khi cần thiết họ sẽ theo đuổi một giải pháp quân sự.
Theo ông thì sẽ không có giải pháp"
Giải pháp không phải chỉ bằng cách quân sự mà còn là chính trị. Quá nhiều người chỉ xoáy quanh mối quan hệ giữa Iran và Mỹ. Nhưng cuộc thảo luận về đề tài này tiếc là chỉ theo đuổi một phương châm: Chúng ta không thắng được bằng chiến tranh, chúng ta phải đàm phán. Nhưng mà ông có thể tin chắc là các nhà thuơng thuyết ngồi vào bàn dễ dàng và thuyết phục được nhau với những lập luận hợp lý về sự ổn định tại Trung Đông cần đến"
Để đạt tiến bộ, người ta cần phải đạt được ba mục tiêu: thứ nhất, cả hai phiá phải tin rằng không ai có thể thành công bằng giải pháp quân sự, thứ hai, cần phải tạo ra một môi trường cần thiết để có thể đạt được một sư quân bình cán cân quyền lực. Thứ ba, cần phải có một chính sách ngoại giao cương quyết, có xác định mục tiêu và phối hợp. Tôi tin rằng cả hai phiá đang tìm đúng hướng.
Ông có lần nói kết cục của cuộc chiến tranh ở Irak quan trọng hơn nhiều so với kết cục của chiến tranh ở Việt Nam.
Vâng, tôi vẫn giữ quan điểm ấy.
Cho mãi đến nay thì chiến tranh Việt Nam đã làm tổn thương tinh thần người Mỹ khá sâu đậm.
Sự tổn thương do cuộc chiến tranh Irak gây nên sẽ còn sâu đậm hơn. Sau khi chiến cuộc Việt Nam kết thúc, thì tình hình tại Đông Nam Á ổn định. Nhưng mà ổn định tình hình Trung Đông sẽ khó khăn hơn nhiều. Tôi hy vọng một ngày nào đó sẽ có người phân tích chiến tranh Việt Nam khách quan hơn. Cho đến nay không ai thành công trong việc này, dù với tất cả mọi cố gắng.
Ông muốn gì đến tính khách quan" Mỹ muốn dùng phương tiện quân sự để chiến thắng Cộng sản tại Việt Nam. Cuộc chiến phải trả bằng hàng triệu sinh mạng của người Việt từ hai phiá. Cuối cùng Mỹ phải rút khỏi Việt Nam. Việt Nam được coi như là một nguyên nhân tạo một phong trào chống Mỹ khắp thế giới.
Câu hỏi của ông đơn giản vấn đề quá mức. Mỹ đã can thiệp sau khi Hà Nội đã đột nhập vào Nam Việt nam với những sư đoàn chính quy. Mỹ đã làm điều ấy, các chính quyền Kennedy và Johnson thử áp dụng nguyên tắc chính sách ngăn chặn, một chính sách đã áp dụng thành công tại châu Âu. Tại Việt Nam, phương cách này đã thất bại; nhưng thật ra không công bình khi tố cáo kẻ đã chống lại cuộc xâm lăng, thay vì tố cáo những kẻ đã xâm nhập miền Nam.
Mục tiêu quan trọng nhất của Mỹ là giúp cho dân chúng miền Nam Việt Nam có một cơ hội để tự quyết định vận mệnh của mình. Mục tiêu này đã đạt được trong hoà ước 1973. Trước đó chính quyền Nixon đã rút 510 000 người lính, dù là đơn phương. Năm 1971 Mỹ đã chấm dứt mọi cuộc chiến trên đất liền, tổn thất đã giảm đến 90 phần trăm. Đó là một loại chiến thắng. 
Một cuộc chiến thắng của Mỹ ở Việt Nam"
Trong ý nghiã là chúng tôi đã được mục tiêu những gì mà chúng tôi đã muốn đạt được trong bản chất của vấn đề. Một điều kiện duy nhất cuả Bắc Việt mà chúng tôi luôn luôn chống đối là Hà Nội đòi hỏi diễn tiến hoà bình chỉ có thể khởi đầu khi chính quyền miền Nam sụp đổ. Theo quan điểm của Hà Nội thì tất cả mọi vấn đề khác chỉ có thể thảo luận khi sau sự sụp đổ này, nói một cách khác, trong sự hỗn loạn về chính trị. Chúng tôi cho rằng đây là một điều kiện không danh dự- nhất là đối với giới lãnh đạo của một liên minh dân chủ trong thời kỳ cao điểm của chiến tranh lạnh. Sau khi Hà Nội đồng ý rằng chính quyền Sài gòn có thể còn tại chức, chúng tôi đã có thể giải quyết các vấn đề khác nội trong một vài tuần lễ.
Ông thực sự nghĩ rằng Mỹ đã chiến thắng vào năm 1972"
Tôi hiểu sự chế diễu của ông. Ông hãy để cho tôi nhắc lại những điểm chính trong thoả thuận của năm 1972: ngưng bắn vô điều kiện. Chính quyền Sài gòn phải còn nắm quyền. Viện trợ quân sự và kinh tế của Mỹ phải được tiếp tục - đặc biệt là viện trợ quân sự không chỉ giới hạn trong việc cung ứng những phụ tùng thay thế. Bộ đội Bắc Việt phải rút khỏi Lào và Kampuchia. Không một đơn vị nào của Bắc Việt được phép xâm nhập miền Nam. 30.000 lính Mỹ còn lại sẽ phải rút khỏi Việt Nam. Tất cả sẽ được giám sát bởi bốn quốc gia trung lập. Không có một nội dung nào trong những thoả thuận này có thể đạt được trước năm 1972 như các huyền thoại hiện nay có thể lên tiếng. Chúng tôi không biết rằng nếu những cam kết này có được đảm bảo hay không, nếu như Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế.
Watergate đã làm điều này không thực hiện được, vì uy tín của Nixon tiêu tan và quốc hội thù nghịch nắm quyền. Quốc hội đã cấm các phản công quân sự chống lại các vi phạm trầm trọng việc ngưng bắn, làm giảm thiểu các viện trợ quân sự và kinh tế cuả Mỹ cho Việt Nam đến một phần ba và cắt toàn bộ viện trợ cho Kampuchia. Vào thời điểm này không còn lực lượng Mỹ ở Việt Nam và cũng không còn tổn thất nào về phía Mỹ. Chúng tôi đã ngưng viện trợ cho một nước đồng minh, một phần chính vì những tranh chấp về chính trị nội bộ của chúng tôi.
Khi nghe ông nói người ta có thể cảm nhận rằng những năm thời chiến vẫn còn sống động đối với ông.
Dĩ nhiên, vào lúc đó tôi đứng vào trọng tâm của mọi diễn biến. Đó là một bi kịch não lòng.
Và ông nghĩ lại những biến cố này qua cuộc chiến Irak"


Đây là một cuộc chiến tranh khác biệt. Việt Nam là một phần của chiến tranh lạnh và cuộc chiến này đã qua đi quá lâu. Không, Irak không phải là Việt Nam. Nhưng một vấn đề ngày xưa vẫn làm tôi suy nghĩ: Những cuộc thảo luận về chính trị quốc nội đã rơi vào điểm nào để lọt ra ngoài vòng kiểm soát đến độ nó tạo ra những huyền thoại. Từ đâu mà có sự cưỡng chế phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam khi mà chúng ta không còn lính Mỹ đóng ở đó nửa. Đáng lý ra chúng ta phải tiếp tục viện trợ cho Việt Nam, nhưng mà thế hệ chống đối cần sự thoả mãn.
Sự chống đối chiến tranh Việt Nam khởi đầu từ trước năm 1972...
Vâng, từ năm 1968. Sự chống đối thay đổi qua thời gian. Trưóc tiên sự chống đối có nghiã là cuộc chiến không mang đến thắng lợi với các phương thức sẵn có. Tôi đồng ý điểm này. Điều này có nghiã là do phong trào phản chiến chúng ta phải thương thuyết. Tôi cũng lại đồng ý điểm này. Và cũng xin ghi nhận thêm: 1967 Mỹ đã có những tiếp xúc bán chính thức với Hà Nội. Sau đó lại có quan điểm cho rằng chiến tranh là một thí dụ tiêu biểu tinh thần phi đạo đức của Mỹ, một căn bịnh mà xã hội Mỹ gặp phải.
Là một ngưòi ty nạn được thụ hưởng nền dân chủ của Mỹ, tôi không đồng ý với tiền đề cho rằng Mỹ là không có đạo đức. Và tôi cũng đã không đồng ý cho một giải pháp rút quân không điều kiện. Chúng tôi đã đặt ra đòi hỏi là dân chúng Nam Việt Nam phải quyết định lấy vận mệnh của mình.
Điều này làm ông nhớ lại tình hình hiện nay tại Irak"
Quá nhiều người hiện nay chỉ giam hãm minh trong một ý tưởng duy nhất: Các anh phải chấm dứt chiến tranh. Những người này muốn nói tới loại chiến tranh nào" Khi xưa tại Việt Nam, cộng sản miền Bắc xâm nhập miền Nam, vì chúng ta không giúp miền Nam nữa. Hiện nay giải pháp cũng phải là chính trị, giải pháp này không chỉ đạt được qua việc rút quân.
Qua những cuộc thương thuyết với Bắc Việt Nam ông đã được trao giải thưởng Nobel về hoà bình năm 1973. Một trong những cộng sự viên của ông sau này kể lại là ông phản ứng một cách rất ngạc nhiên: “Ai đoạt giải" Sao lại là tôi"”
Tôi không biết rằng tôi vào vòng chung kết của giải này, chính vì thế mà tôi không tin như vậy. Tôi không hề gây áp lực để đoạt giải. Sự ngạc nhiên của tôi không phải ở chỗ là tôi không hề nghĩ mình xứng đáng đoạt giải. Tôi đã hãnh diện về những gì mà chúng tôi đã đạt được ở Việt Nam.
Nhìn lại những năm làm việc với chức vụ cố vấn an ninh và ngoại trưởng, ông có điều gì hối hận không, ông có phạm phải những sai lầm nào không" Thí dụ như việc ném bom Kampuchia, phải chăng đó là một sai lầm nghiêm trọng"
Tôi muốn giới hạn câu trả lời cuả tôi vào việc ném bom những căn cứ Bắc Việt dọc theo biên giới Kampuchia. Không, tôi không tin đó là một sai lầm. Anh sẽ làm gì khi anh ở vào tình trạng của chúng tôi khi đó" Bên kia biên giới Kampuchia có bốn sư đoàn và họ giết hằng ngày hằng trăm lính Mỹ. Tại sao nguyên tắc trung lập phải bảo vệ họ"
Hoàng thân Sihanouk, Quốc trưởng Kampuchia, dường như cũng nhận ra như thế. Hai tháng sau khi đợt không tập đầu tiên trên vùng trú quân Bắc việt, Sihanouk đã trả lời về cuộc ném bom B 52 trong một cuộc họp báo ngày 13 tháng 5 1969 là: ”Tôi không chống đối việc oanh tạc các căn cứ Việt Cộng, bởi vì tôi không hề nghe đến việc ném bom bao giờ. Tôi không biết về vấn đề này, bời vì có những khu vực không hề có nguời Kampuchia ở. Không ai bị trúng đạn, không ai, không một ngưòi Kampuchia nào.”
Sự can dự của Mỹ đưa đất nưóc này vào tình trạng hỗn loạn. Cuối cùng Pol Pot nắm quyền và xây dựng một chế độ khủng bố.
Thú thật với ông khi nhận trả lời cho cuộc phỏng vấn này của một tờ báo mà tôi luôn tôn trọng, và các vị chủ biên trước đây và hiện nay của nó là những người mà tôi luôn kính quý, tôi không hề nghĩ rằng tôi phải trả lời như trong một phiên toà xử tội về những biến cố của bốn thập niên trước bằng giọng điệu này. Tại sao ông nói sự tự vệ cuả người Mỹ mà không nói là sự tấn công của Hà Nội gây nên sự hỗn loạn" Ông tin là Pol Pot đã nhân đạo hơn khi ông ta có thể nắm quyền bốn năm sớm hơn hay sao" Ông ngụ ý rằng một phản ứng duy nhất hợp pháp trước sự tấn công của nhóm người sát nhân diệt chủng là chủ trương hiếu hoà và thụ động sao" Vấn đề đặt ra là do đâu mà có sự hỗn loạn. Lại cũng là một vấn đề thuộc về tranh luận nội tình của nuớc Mỹ. Chúng tôi không được phép viện trợ thêm 300 triệu cho Nam Việt Nam, chúng tôi không được phép gởi quân vào các quốc gia lân cận để giúp đỡ.
Ông được coi như là ngưòi đại diện tiêu biểu cho cái gọi là học thuyết chính sách thực tiễn.
Ông đánh đồng chính sách thực tiễn với chính sách về quyền lực. Tôi thì không như vậy. Ngay cả Bismarck, một ngưòi cổ vũ cho chính sách thực tiễn, đã từng nói điều tốt đẹp nhất mà một chính khách có thể làm được là lắng nghe những bước đi của Chúa, nắm lấy gấu áo của Ngài, và cùng đi với Ngài đi trên một chặng đường ngắn. Là một chính khách theo đường lối thực tiễn, người ta cần đến những giá trị và trên căn bản những giá trị đó mà ngưòi ta hành động. Tôi không chấp nhận sự phân biệt giữa chính sách thực tiễn và những giá trị! Tôi phân biệt giữa một chính sách thực tiễn và một chính sách ngoại giao lý tưởng. Những ngưòi có lý tưởng tin rằng mỗi một quan niệm có thể thực hiện được trong một thời gian nhất định, tốt nhất phải làm ngay. Những nhà chính sách thực tiễn tin vào những giá trị, tuy nhiên ông ta cũng biết cái gì có thể làm được. Là một nhà chính khách thực tiễn tôi xin nói với ông là: Quá nhiều ngưòi chết vì các cuộc thánh chiến hơn là chết vì các chính khách.
Điều đáng ngạc nhiên hơn là làm sao mà ông lại có thể có quan hệ tốt với nhóm người theo thánh chiến, những người theo trường phái tân bảo thủ của chính quyền Bush như vậy.
Lại một giọng điệu mai mỉa không cần thiết. Giới này đã công kích tôi từ hơn một thập kỷ truớc khi thuật ngữ tân bảo thủ này được phổ cập ở Âu châu. Tôi thường đồng ý với cách phân tích của học phái này nhưng ít khi đồng ý với các giải pháp của họ. Họ không phải là những nhà phân tích chiến lược. Họ là những người Trotzkit lộn ngược khi họ tin rằng chính sách ngoại giao chỉ là một khiá cạnh cuả chính sách đối nội. Học phái này tìm một sự hoà hợp trên toàn thế giới, một loại hạnh phúc phổ quát bằng cách thay đổi chế độ.
Họ muốn xuất khẩu nền dân chủ khắp mọi nơi.
Họ thích nhất là các chính quyền Trung Hoa, Nga, Iran và cả Bắc Hàn sụp đổ. Họ coi đó là một chiến lược trường kỳ. Trái với điều này, tôi tin là người Mỹ vừa không có hiểu biết vừa không có tài năng và sự bền bỉ để làm người làm cha đỡ đầu cho toàn thế giới.
Vấn đề của chính sách thực tiễn là theo quan điểm này nhân quyền chỉ nằm ở vị trí thứ yếu.
Không, cái đó tùy thuộc vào cách nhấn mạnh. Khi ông không xuất hiện như một chiến sĩ cho thánh chiến, thì ông có thể nói chuyện vấn đề vi phâm nhân quyền với người Trung Hoa được. Tôi đang làm điều ấy.
Đúng như vậy không"
Vâng, một cách thường xuyên và nhẹ giọng
Nhưng có đủ mạnh để ngưòi ta nghe thấy không"
Những người nào phải nghe điều đó, họ sẽ nghe. Bằng cách này con số ngưòi di dân của Liên Xô từ năm 1969 đến 1972 tăng lên từ 900 đến 39.000 hàng năm. Sau khi vấn đề này trở thành một đề tài tranh luận công khai thì con số người di dân không hề xuống dưới 15.000. Ông biết không, những quyết định liên quan đến chính sách đối ngoại khó khăn là những quyết đinh thuộc tỷ lệ 51 trên 49 phần trăm. Ông chỉ có những quyết định thích ứng khi nào ông có xác định những giá trị cuả riêng mình. Nhưng mà người ta cũng phải chấp nhận lịch sử và văn hoá người khác, dĩ nhiên chỉ trong chừng mực không diễn ra nạn diệt chủng như tại Ruanda hay Dafur.
Ông là một nhà chính trị quan trọng đứng hàng thứ nhì tại Hoa kỳ trong nhiều năm. Đối với ông thì quyền lực có ý nghĩa gì"
Tôi vừa tròn 84 tuổỉ. Quyền lực của tôi qua thời gian có thể nhận ra được. Đối với tôi, quyền lực luôn luôn có nghiã là có khả năng đạt được mục tiêu để lại thế giới những gì tốt đẹp hơn trước khi tôi nhận chức vụ. Ngoại trưởng Mỹ là người ngồi vào bàn làm việc, chìm đắm trong tư tuởng của mình và có thể bấm nút ra lệnh, điều này chỉ các vị nhà báo có thể tưởng tượng ra được. Nhưng khi ông nhận ra những vấn đề quan trọng trong thời kỳ tôi làm việc cho chính quyền, thì ông sẽ xác định được thật là cực kỳ khó khăn cho tôi để hoàn thành nhiệm vụ. Đó là những năm tháng đầy ngờ vực, sợ hãi và với ý chí để vượt qua.
Trước khi tới Washington, ông là giáo sư đại học Harvard. Dưới thời Nixon và Ford ông không những phân tích chính trị mà còn làm chính trị.
Vâng, đúng như vậy. Mọi chuyện đã xảy ra khác hơn tôi hy vọng. Hợp lý nhất cho tôi là tôi đã trở thành cố vấn an ninh cho tổng thống Rockfeller. Với Nixon, vấn đề phức tạp hơn khi tôi làm cố vấn an ninh cho ông ta vì trước đó tôi chưa làm việc chung với ông ta bao giờ. Ông ta là một tổng thống khác thường và phức tạp. Có lẽ chính vì thế mà tôi không nhớ vào thời kỳ đó đã từng có ý nghĩ gì: Ta sẽ nhập cuộc và đạt được một số quyền lực. Tôi biết có nhiều nhân chứng đã mô tả như thế trong nhiều cuốn sách. Tôi thì nhớ khác đi.
Ông nhớ như thế nào"
Chúng tôi ở trong chiến cuộc. Có 400 người chết một tuần trong sáu tuần đầu tiên. Chúng tôi mất quá nhiều binh sĩ trong sáu tuần này khi so với nước Mỹ mất trong năm năm vừa qua cộng lại. Đó là những bất ổn đầu tiên. Chúng tôi phải chuẩn bị các đàm phán về giải giới. Và chúng tôi không có tiếp xúc vớí Trung Hoa. Tình hình Trung Đông sôi động. Liên Xô lại vừa chiếm đóng Tiệp Khắc. Chúng tôi phải giải quyết vấn đề năng lượng. Điều quan trọng hơn tất cả là: chúng ta phải tạo một trật tự hoà bình.
Cách đây 30 năm, tháng giêng năm 1977 ông đã rời khỏi chính quyền. Ông có luyến tiếc quyền lực không"
Vâng, chỉ có trong vài năm đầu, về sau thì không.
Khi xưa ông có nói: Quyền lực là một phương tiện kích thích tình dục mạnh nhất, câu này còn đúng không"
Xin ông cho tôi trả lời như thế này: sinh hoạt xã hội ở Washington rất náo nhiệt. Điều này chắc chắn là không khác so với Berlin hiện nay.
Chúng ta nói chuyện với nhau bằng Anh ngữ, mặc dù dĩ nhiên ông vẫn còn nói được tiếng Đức. Ông sinh ra ở Fürth và cùng gia đình di dân vào năm 1938 để tránh nạn tàn sát người Do thái.
Vấn đề của tôi với tiếng Đức là tôi không thể diễn đạt chính xác như tiếng Anh. Nói chuyện riêng tư thì không thành vấn đề. Càng sống lâu ở nước Đức thì tiếng Đức của tôi càng khá hơn. Khi tôi thảo luận với các giáo sư người Đức bằng Đức ngữ, tôi không hiểu họ nói gì nữa. Dĩ nhiên tôi có thể đọc một diễn văn bằng Đức ngữ. Nhưng ông cũng biết là đọc một bài diển văn viết sẵn, tôi đoán chắc là cử toạ sẽ không quan tâm.
Cách đây hai năm trong một cuộc viếng thăm Âu Châu, ông kể rằng ông muốn sẽ đi thăm Fürth. Ông không biết rằng đó có phải sẽ là lần cuối không.
Vâng, từng tuổi như tôi, tôi cũng muốn như vậy. Khi xưa tôi rất thích và đã đi nhiều nơi, bây giờ tôi cảm thấy khó hăn hơn. Lòng tôi vẫn gắn bó với quê hương và qua thời gian cũng không thay đổi.
Sự gắn bó này càng sâu đậm khi tuổi tác càng cao"
Ít nhất tôi không có ý thức về điều này. Cứ mỗi cuối tuần tôi đều luôn nhận thông tin về hội bóng đá của tôi tại Fürth chơi như thế nào. Và tôi muốn nói với ông là đó là một điều bất hạnh. Từ nhiều năm nay các hội bóng đá này đã thường thua khít khao, khi chỉ tính về bàn thắng, để vào chung kết trên bảng liên bang Đức. Nhưng bây giờ tôi cũng quen dần với tên gọi hội bóng đá bây giờ có tên gọi là Greuther Fürth, mà không phải là Fürth. Thời niên thiếu của tôi, tôi không biết Greuther là gì.
Nguồn: Zeitmagazin Leben Nr. 27, 26. Juni. 2007, trang 14-23.
http://www.zeit.de/2007/27/Kissinger"page=all

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.