Hôm nay,  

Giới Thìệu Sách:hồ Sơ Tội Trạng Của Henry Kissinger

23/11/201000:00:00(Xem: 19188)

Giới Thìệu Sách:Hồ Sơ tội trạng Của Henry Kissinger

Đỗ Kim Thêm
Chistopher Hitchens, The Trial of Henry Kissinger, Verso Books, London, New York 2001, 159 pp, $ US 22.
Đại ý:
Tội ác của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam là một đề tài bất tận. Lúc chiến tranh còn khốc liệt đã có những trí thức ngoại quốc tên tuổi như J. P. Sartre, B. Russell và N. Chomsky lên tiếng kêu gọi thành lập tóa án quốc tế nhằm xét xử sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Khi chiến tranh kết thúc thì vấn đề này không còn ai quan tâm, phần lớn các tác phẩm xoay quanh chù đề Việt Nam đều nói về sự sai lầm của Hoa Kỳ. Nhưng có một ký giả đã đặt lại vấn đề này và  tự nhận mình có trách nhiệm như một thẩm phán công tố và lập hồ sơ để truy tố một nhân vật đã gây tội ác trong chiến tranh Việt nam và nhiều nơi khác trên thế giới. Thủ phạm được gọi đích danh là Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người đã ký kết Hiệp Định Paris. Tội danh được cáo buộc là: tội ác gây chiến tranh, tội ác chống nhân loại, đặc biệt qua các vụ âm mưu tạo phản loạn, ám sát, bắt cóc và tra tấn. Với các tội danh này tác giả yêu cầu Toá Án Quốc Tế phải xét xử đương sự. Đó chính lá nội dung chủ yếu của cuốn sách được gìới thiệu trong bàí viết này.
Tác gỉả:
Chistopher Hitchens là một ký giả Hoa Kỳ gốc Do Thái, chuyên về săn tin điều tra và viết bình luận cho tở The Nation và The Harper Magazine tại Hoa Kỳ. Ông đã nổi tiếng qua các loạt bài về phóng sự đìều tra nhắm vào mặt trái của các nhân vật tên tuổi như Mẹ Theresa, Công chúa Diana và Tổng Thống Clinton.
Nội dung tác phẩm:
Tác phẩm gồm có 14 chương nhưng không đánh số thứ tự. Phân loại theo nội dung thì gồm có phần nhập đề, 10 đề tài, phần kết luận và phần cám tạ.
Phần nhập đề: Tác giả tự nhận mình là một đối thủ chính trị của Henry Kissinger và muốn buộc ông ta trong những tội trạng như sau:
1. Cố ý  giết người thường dân tại Đông Dương (gồm 3 chuơng)
2. Đồng lõa tàn sát tập thể tại Bangladesh (1 chuơng)
3. Chủ mưu giết một nhân viên cao cấp trong chính phủ Chí Lợi. (2 chương)
4. Chủ mưu và tham dự vào việc giết một lãnh tụ của Zypern (1 chương)
5. Chủ mưu và thực hiện tội diệt chủng tại Osttimor (1 chương)
6. Tham gia vào kế hoạch bắt cóc và giết một ký già người Hy lạp sống tại Washington D. C. (2 chương)
Chương 1 bật mí các bí mật trong hậu trường chính trị Hoa Kỳ vào năm 1968, mặc dù các chính phủ liên tiếp được giử kín. Bí mật đó là: Vào mùa thu 1968 trong thời kỳ tranh cửø chính R. Nixon và các đặc sứ của ông đã cố tình phá hoại Hoà đàm Paris bằng cách hưá hẹn bí mật với giới lảnh đạo Nam Việt Nam là chính quyền của đảng Cộng Hoà (nếu thắng cử) sẽ tạo vị thế thuận lợi cho Nam Việt Nam hơn là Chính Phủ của Đảng Dân Chủ. Hậu quả là Nam Việt Nam đã tin theo và tẩy chay Hoà đàm Pa-ris khi triển vọng ký kết sắp thành hình. Những đề nghị hòa đàm do Đảng Dân chủ đưa ra bị phá vở. Vào đúng bốn năm sau chính R. Nixon cũng đã dùng các điều kiện này cuả Đảng Dân Chủ để vận động lại hòa bình cho Việt nam. Hậu quả tàn khốc cuả kế hoạch này là cuộc chiến kéo dàì thêm 4 năm nửa với số tổn thất 20.000 ngưới Hoa Kỳ và vô số người Đông Dương. Theo suy luận của tác giả, tất cả đều nằm trong dụng ý của Henry Kissinger.
Nhũng bằng chứng vể lời cáo buộc này được tác giả nêu ra:
- Thứ nhất là những tin tức trích ra từ nhật ký của H. R. Haldeman, Diary of Haldeman, một cộng sự viên của R. Nixon và H. Kissinger, người phụ trách việc lập các biên bản. Tài liệu này được công bố vào tháng 5 năm 1994.
- Một tài liệu thứ hai là cuốn sách Counsel to the President: A Memoir của Clark Clifforf, Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ. Sách được ấn hành năm 1991. Theo Clifford xác nhận thì vào thời điểm này đã có sự gặp gỡ bí mật giứa Tổng Thống Thiệu và John Mitchell, Giám Đốc Tranh Cử cuá R. Nixon. Ông Mitchell được Bà Anna Chennault, một Lobbyist của Đài Loan làm trung gian hổ trợ.  
- Tài liệu thứ ba là Hồi ký của R. Nixon, The Memory of Richard Nixon. Ông xác nhận giửa tháng 9 năm 1968  ông được tin riêng là Johnson sẽ ra lệnh ngưng dội bom đề tạo điều kiện cho Bắc Việt vào HộI nghị. Điều này không làm ông ngạc nhiên. Kissinger báo cho ông biết là lệnh ngưng dội bom sẽ công bố vào 23. 10. Nhưng từ tháng 6. 1968 Nixon qua trung gian của bà Anna Chennault đã gặp riêng Đại Sứ Bùi Diễm tại New York .
- Tài liệu thứ tư là điện văn cuả Đại Sứ Bùì Diễm gởì cho Tổng Thống Thiệu ngày 23.10.1968. Ông Diễm cũng yêu cầu Tổng Thống Thiệu nên giữû vững lập trường, vì ông đã được Đảng Cộng Hoà xác nhận ủøng hộ miền Nam. Qua các tài liệu nghe lén từ Toà Đại Sứ và theo dõỉ hoạt động của bà Anna Chen-nault đươc phổ biến sau này cho thấy rõ vấn đẽ hơn: Cứ mổI lần phe Bắc Việt Nam có thiện chí ký kết thì chính phe Nam Việt Nam lại ngả giá đặt điều kiện cao hơn.
- Tài liệu thứ năm là cuốn sách của Anthony Summers, The Arrogance of Po-wer: The Secret World of Richard Nixon, xuất bản năm 2000. Đây là một tổng hợp các hồ sơ nghe lén cuả R. Nixon, trong đó có chiến dịch tranh cử năm 1968. Qua hồ sơ của một điệp viên ngày 2.11 1968 thì bà Anna Chennault gặp Đại sứ Bùi Dìễm để xác nhận sự ủng hộ của R. Nixon và yêu cầu là phía Nam Việt nam phài giử vửng lập trường. Nixon tin rằng Nam Việt Nam sẽ thắng.
Trong thờI kỳ này Henry Kissinger nằm trong bóng tối và điều động từ hai phiá. Một mặt ông đưa tin mật ra bên ngoài; ông tình nguyện cung cấp tin này cho Nelson Rockefeller để tuỳ nghi khai thác. Ông cũng nói cho Zbiginew Brzezinski  biết là ông ghét R. Nixon từ lâu và không tin Nixon thắng cử. Mặt khác ông sửø dụng Anna Chennault và John Mitchell trong các điêp vụ ngoại giao riêng củà ông. Điều này tạo một ấn tượng chung lúc bấy giờ là Nixon không liên hệ gì đến nhưng vụ dội bom Bắc Việt và mọi diễn tiến đền diễn ra từ phiá Đảng Dân Chù. Ông cũng cố tình cho thấy là chính ông cũng không biết gì vấn đề này.
Cuối chương sách tác già đề cập tới vai trò của Henry Kissinger trong cái gọi là 40 Committee. Đây là một  tổ chức nhằm nghe lén và kiểm soát các hoạt động tình báo tại hải ngọai được thành lập từ thờI Tổng ThốngTruman. Trong cuộc điều tra cuả Thượng Viện năm 1973 Giám Đốc CIA là William Colby cũng xác nhận có tổ chức này và cho biết Henry Kissinger chiụ trách nhiệm điều hành, đặc biệt Kissinger nớI rộng hoạt động tới các phạm vi tình báo quốc nội, điều mà trước đây luật pháp không cho phép.
Chương 2 nói tớI hoạt động của Henry Kissinger tại Đông Dương. Trong giữûa thập niên 60 khì mọi ngườI vẫn lạc quan cho cuộc chiến là có ý nghiả và phần thắng nghiêng về phiá miền Nam thì ông bắt đầu nghi ngở khả năng của phe Nam Việt Nam sau lần đi thăm Việt nam về. Ông đã âm thầm tiếp xúc với Bắc Việt qua trung gian hai ngườI Pháp là Raymond Aubrac, một công chức nguờI Pháp và là bạn của Hồ Chí Minh và Herbert Marcovic, một nhà Vi Sinh Vật Hoc, đã đi Hà Nội nhiều lần. Qua tin tức cung cấp từ hai người Pháp này ông đã ông đặc biệt tìm hiểu về khã năng và vị thế thương thuyết của t"ng nhà lãnh đạo miền Bắc. Ông cũng đưa tin này tiếp cho R. McNamara. Song song vớI công viêc này cũng xúc tiến việc việc xich lại gần nhau của các siêu cường. Dù trong kế hoạch của Việt Nam hay quốc tế, ông luôn luôn có ý niệm chung: tất cã đều là phương tiện trong mục tiêu của cá nhân ông, có lúc ông chú trọng mục tiêu này và sao lãng mục tiêu kia.
Tác giả nêu lại cơ hộI tái lập hoà bình để lỡ của năm 1968 làm thí dụ điển hình. Theo lờI khai của Averell Harimann, Trưởng phái đoàn thương thuyết tại Hòa Đàm Paris thì tháng 10 và tháng 11 năm 1968 có 90% các lực lượng chiến đấu của miền Bắc đã rút khỏi ra hai tỉnh phía Bắc Nam Việt nam, như Hiệp định dự kiến, còn ngưng dộI bom miền Bắc chỉ là một điểm của Hiệp Định mà thôi. Tháng 12 năm 1968 chính là thời kỳ chuyễn tiếp từ chính quyền Johnson sang Nixon. GiớI lãnh đạo quân sự tại Hoa Kỳ lại thay đổI chiến lược triệt để. Tướng Creigton Abrams đồng ý mở một cuộc chiến tranh toàn diện nhằm phá hoại mọi hạ tầng cơ sở của Việt Cộng tại miền Nam, điển hình là chiến dịch hành quân càng quét tại Kiến Hoà trong 6 tháng đầu năm 1969, mà ngườI Hoa Kỳ gọI là Operation Spee-dy Express. Qua tài liệu của Haldeman thì Henry Kissinger chú tâm tớI kết qủa cuộc bầu cừ 1972 tại Hoa Kỳ hơn là rút quân để giải quyết chiến tranh Việt Nam. Trong hồi ký của ông Kisssinger, ông cũng xác nhận là sự rút quân đột ngột gây khó khăn về uy tín cho Hoa Kỳ. Sự can thiệp cuả Charles De Gaulle về vấn đề dộI bom miền Bắc không gây ảnh hưởng gì cho Kissinger, vì ông lúc bấy giờ quan tâm tớI ý kiến của Breschnjews và Mao Trạch Đông hơn.
Một tội trạng khác được nêu lên là vụ ném bom miền Bắc vào muà Giáng Sinh 1972. Bây giờ là muà tranh cử tại Hoa Kỳ bắt đầu. Theo tác giả, quyết định dội bom không phải là có tính cách quân sự thuần túy mà vì lý do chính trị. Ông chứng minh, một mặt Hoa Kỳ chứng tỏ cho thấy thế mạnh của mình để gây hậu thuẩn cho Đảng Cộng Hòa trong trong Quốc Hội và đưa phe Dân chủ về phiá thụ động, mặt khác muốn gây niềm tin cho Tổng thống Thiệu thấy là không nên sợ hãi trước việc Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam.
Tội trạng liên quan đến Kambodscha được tác giả nêu lên ở cuối chương. Đúng ngày 12.05.1975 là ngày Khmer Đỏ chiếm quyền thì một chiếc tàu Kambodscha đã kéo theo một tàu hàng của Hoa Kỳ tên là Mayaguez. Tàu này nằm trong lãnh hải cuà Kambodscha và được kéo về đảo Koh Tang. Mặc dù được biết tin là thủy thủ đoàn đã được trã tự do, Henry Kissinger cũng cố tình làm áp lực cho Henry Ford, một Tổng thống kế nhiệm thiếu kinh nghiệm, một biện pháp trả đũa để giữ thể diện. Kết quà cuộc tấn công này là trong 110 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ có đến 18 ngườI chết và 50 nguờI bị thương; phía Không Quân tham dự có 23 quân nhân tử trận. Hoa Kỳ đã thả 15.000 cân Anh trên đảo naỳ và không ai biết được con số thương vong cúa ngườI dân vô tộI Kambodscha một cách chính xác. Trong một cuộc điều tra tại Quốc HộI cho thấy Henry Kissinger ít nhất phảỉ biết đươc tin thủy thủ đoàn đã được thả trước khi quyết định can thiệp. 
Chương 3 là trọng điểm của cuốn sách đuợc tác gỉả dùng để tổng hợp tộI trạng của Henry Kissinger trong chiến tranh Việt Nam.
KhởI đầu tác giả sừ dụng cuốn sách Nuremberg and Vietnam của TướngTelford Taylor để làm tài liệu phân tích. Theo Taylor, thì những nguyên tắc luật pháp áp dụng tại Tòa Án Quốc Té Nürnbeg và Tokio cũng nên áp dụng cho trưởng hợp Việt Nam. Bản án Nürnberg đã được Liên Hiệp Quốc chuẩn nhận ngày 11-12.1946 và trở thành nguyên tắc Luật Quốc Tế sau náy. Như vậy Hoa Kỳ cũng phải tôn trọng nguyên tắc này khi tham chiến tại Việt Nam. Những bị cáo cũng có thể lập luận rằng mục tiêu chiến đấu của chiến tranh Việt Nam là danh dự và cao cả; những người có trách nhiệm đều vô tộI, vì khộng ai có thể lường trước được những kết qu" tàn khốc của một cuộc chiến lan rộng và một phần khác là thiếu thông tin chính xác. Cũng theo Taylor thì lập luận này có thể được chấp nhận được cho đến giừa thập niên 60.Từ sau thảm sát Mỷ Lai 16. 3 1968 không ai có thể cho là mình không biết đến mức độ vô nhân đạo trong các cuộc tàn sát khi chiến tranh đã leo thang lên cao điểm.
Một lập luận khác của William Corson, Đại Tá Hoa Kỳ, cũng nêu lên để phản chứng.Theo Corson, sự khốc liệt trong chiến tranh Việt Nam không có yếu tố hình sự để buộc tội, đó chỉ là sự ước lượng sai lầm của giớI lãnh đạo Hoa Kỳ từ đầu đến cuối sự tham chiến.
Lập luận này khộng được Taylor chấp nhận. Ông nêu lên những đặc điểm trong chiến tranh Việt Nam, điều mà ngườI ta không thể so sánh vớI các cuộc chiến tranh trước đây. Một mặt những vũ khí được trang bị tại Việt Nam rất hiện đaị và di động, mặt khác thì phương tiện truyền thông từ Hoa Kỳ đến Việt Nam cũng như từ trung ương đến hạ tầng được bảo đãm. Một điều có thể suy đoán được là Henry Kissinger và Tướng Creigton Abrams phải biết được tầm mức lan rộng chiến tranh đến thường dân vô tộI và họ ít nhất phải được thông báo đằy đủ về vấn đề này.
Theo tài liệu của John Mc Naugton, Đaị Diện Bộ Quốc Phòng, cho thấy giớI lãnh đạo Toà Bạch Ốc vào năm 1967 chỉ muốn một phương cách duy nhất để quét sạch Việt Cộng bằng cách đốt nhà dân chúng, phá hết rừng rậm và tráng nhựa lại hết toàn bộ miền Nam.
Một bằng chứng khác là cuộc Hành Quân Bình Định Nông Thôn tại Kiến Hòa vào  sáu tháng đầu năm 1969. Tài liệu của Kevin Buckley, Trưởng Văn Phòng Tuần báo Newsweek tại Saì Gòn cho thấy Henry Kissinger có tiếng nói quan trọng trong quyết định này. Theo Buckley thì tổng số thương vong cúa cộng quân trong cuộc hành quân này là 10. 899, nhưng bằng chứng khác cho thấy số thương vong cúa dân chúng lên trên 5. 000 và vượt qua hẳn con số tại vụ Mỹ Lai. Một câu hỏi được đặt ra là từ đâu có những con số này thì một sĩ quan Sư Đoàn 9 Không Kỵ Hoa Kỳ trã lờI là: các trực thăng có thể đếm các xác của kẻ thù không có vũ khí này từ trên những cánh đồng. Một nghịch lý khác được tác giả nêu lên là so với gần 11. 000 ngườI chết mà số vũ khí tịch thu được chỉ có 748. Theo ước lượng cúa tác gíả thì cuộc hành quân này mức độ khốc liệt hơn Mỹ Lai nhiều.
Tác giả trưng dẩn một tài liệu khác của Tad Szulc qua cuốn sách The Illusion of Peace. Theo đó thì chính Henry Kissinger đã có lần đề nghị sử dụng bom nguyên tử đề phá hoại đương tiếp tế Hoa-Việt và một lần khác nhằm phá hệ thống đê điều của miền Bắc. Nhưng đề nghị này đã không được chấp thuận.
Vấn đề dộI bom Kambodscha cũng được đặt ra. Theo tác giả thì không có một căn bản pháp lý nào cho việc nới rộng chiến tranh này cũng như một đảm bảo an toàn nào cho cho các thường dân. Theo các tài liệu từ Toà Bạch -c và Bộ Quốc Phòng cho thấy là trong quyết định oanh tạc sang Kambodscha và Lào thì tổn thất các nạn nhân vô tội được dự kiến trước. Theo tác giả có it nhất 660.000 thường dân tại Kambodscha và 350.000 tại Lào phải hy sinh oan uổng. Trong Hồi ký cùa Henry Kissinger ông có đề cập tớI vấn đề này và cho là lệnh dội bom đến từ nhiều cơ quan khác nhau và điều này có thông báo cho Quốc Vương Sihanouk biết trước.Theo tác giả thì chính Kissinger góp phần quan trọng vào vấn đề naỳ và ông đã theo dõi chặt chẽ diễn tiến các cuộc oanh tạc Kambodscha. Không thể nào lập luận rằng ông không có ý thức sự nguy hiểm cuả quyết định này. Sự chấp thuận của Sihanouk, nếu có, cũng không giải tộI cho Kissinger được. Những người trong cuộc như R. McNamara, Mc. Georg Bundy và William Colby đã chính thức lên tiêng hối lổi và cố gắng giãi thích vấn đề. Còn Henry Kissinger thì tuyệt nhiên cho đến nay không có những phản ứng gì tương tự.
Tác giả cũng tố giác việc Hoa Kỳ đếm xác ngườI Việt để báo cáo lấy thành tích, điều mà họ không phân biệt thường dân hay quân nhân. Một thí dụ được nêu lên để minh chứng là số tử thương chính thức từ tháng 3 năm 1968 cho đến tháng 2 năm 1972: Hoa Kỳ: 31.205, Nam Việt Nam: 86.101 và Đối phương: 475.609. Cũng nên biết là trong thờI kỳ này Hoa Kỳ đả bỏ 4.500.000 tấn chất nổ xuống Đông Dương. Theo ước lượng của Thượng Viện Hoa Kỳ thì ít nhất có trên ba triệu thường dân thiệt mạng. Một con số khác được CIA đưa ra là chì có 35. 708 thường dân bị bắt cóc và giết chết trong Chiến Dịch Phượng Hoàng, cũng là điểm đáng nghi ngờ. Những con số này được Henry Kssinger đưa ra phần lừa dối, phần dấu nhẹm công luận và tránh áp lực của Quốc Hội. Tác giả đã trích dẫn Nhật ký của Haldeman để dẩn chứng sự kiện này ở cuối chương sách.
Chương 4 nhằm cáo giác tộI diệt chủng vá âm mưu đào chánh cuả Henry Kissinger tại Bagladesh.
Tháng 12 năm 1970 phe quân phiệt Pakistan cho phép bầu cử tự do. Kết quả là phe Scheich Mujibur Rahen thắng cử dễ dàng và chiếm đa số ghế trong Quốc Hội. Theo dự kiến thì 3 tháng 3 năm 1971 Quốc Hội sẽ triệu tập phiên họp đầu tiên. Đúng ngày 1 tháng 3 năm 1971 Tướng Yakya Khan tuyên bố đình hoản việc này khiến cho dân chúng nổi dậy chống đối. Quân đội can thiệp mạnh vào thủ đô Dhaka và bắt giữ Scheich Mujibur Rahman; kỳ giả ngoại quốc bị trục xuất. Bất bình trước các đàn áp thô bạo này Tổng lãnh Sự Hoa Kỳ tại Dhaka là Archer Blood gởi điện văn phản đối sự chậm trể can thiệp của Hoa Kỳ. Việc này đựơc đa số nhân viên Toà Lảnh Sự ủng hộ. Quân đội tiếp tục đàn áp sinh viên và dùng súng bắn vào các cư xá đại học. Các vủ khí này do Hoa Kỳ cung cấp trong chương trình viện trợ phát triển. Trong 3 ngày đầu theo tác giả có tớI 10.000 thường dân bị chết. Tổng số nạn nhân trong cuộc đàn áp này được ước lượng tối thiểu từ hơn nửa trệu cho đến đến ước lượng tối đa là ba triệu thường dân. Trước tình hình cực kỳ sôi động, Đai Sứ Hoa Kỳ tại Ấn Độ là Kenneth Keating trong điện văn ngày 29 tháng 3 1971 yêu cầu Hoa Kỳ phải có biện pháp ngăn chận. Kết quả đạt được là Henry Kissinger đã cách chức Archer Blood và cảnh cáo Kenneth Keating. Vào cuối tháng tư 1971 là thờI kỳ cao điểm cùa đàn áp chính Tướng Yahya Khan đã gờI thư cảm tạ Henry Kissinger vể sự hợp tác.
Theo tài liệu cùa sử gia Lawrence Lifschultz thuộc Đại Học Yale thì Henry Kissinger phải làm ngơ vì vào thờI điểm này Pakistan đang làm trung gian cho việc nối lại bang giao Hoa Kỳ và Trung Hoa. Ngay trong phiên họp tạo Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ ngày 6 tháng 3 1971 do Kissinger triệu tập, thì mọi đề nghị can thiệp đ"u bị Kissinger bác bỏ, kể cả việc cảnh cáo tuớng Yahya Khan phài tôn trọng kết qu" bầu cử. Thái độ của Henry Kissinger cho thấy là ông không tôn trọng nguyện vọng dân chủ của nhân dân Bangladesh. Sau này khi Mujibur đi thăm Hoa Kỳ vào năm 1974 vớI tư cách là quốc trưởng, ông tẩy chay không gặp trong một cuộc tiếp xúc trong 15 phút mà chính Tổng thống Ford đã chấp thuận. Tháng 11 năm 1974 ông đến thăm Bangladesh  trong vòng 8 tiếng đồng hồ và chỉ mờ một cuộc họp báo trong 3 phút. Theo những tài liệu thì ông để sắp xếp cuộc đảo chính Mujibur. Ngày 14.8 1975 thì Mujibuhr và 40 tùy tùng đã bị hành quyết trong một cuộc đảo chính. Những chi tiết liên quan với David Eugene Booster, Đại Sứ Hoa Kỳ và Phipp Cherry, Trường Cơ Quan Tình Báo CIA tại Bangladesh được tác giả dẩn chứng. Trong có một  cuộc điều tra về âm mưu đảo chánh cùa Kissinger được Tồ chức Carnegie thực hiện vớI sự tham dự của 150 viên chức Bộ Ngoại Giao và CIA, nhưng kết qủa này không được công bố, vì chính áp lực cùa Kissinger .
Chương 5 nhằm vạch trần tộI trạng của Henry Kissinger tại Chí LợI trong khi triển vọng phát triển dân chủ taị xứ này đang thành hình.
Tháng 9 năm 1970 phe tả của Dr. Salvador Allende thằng thế vớI đa số phiếu  36,2% trong cuộc bầu cử Tổng Thống. Sự phân hoá chính trị trong cánh hửu và baỏ thủ càng trầm trọng hơn khiến cho các doanh nghiệp Mỹ tại Chí LợI như ITT, Pepsi-Cola và Ngân Hàng Chase Manhattan thấy làm ăn khó khăn hơn; triển vọng bang giao kinh tế hai nước theo chiều hưóng này cũng xấu đi.  Sau khi thoả thuận vớI Donall Kendall, Chù tịch tập đoàn Pepsi-Cola, David Rockefeller, Chủ Tịch Ngân hàng Chase Mahattan và Richard Helms, Giám Đốc CIA, Henry Kissinger cùng Richard Helms đến gặp R. Nixon để tìm cách giài quyết vấn đề. R. Nixon đồng ý kế hoạch ngăn trở Allende nắm quyền, phí tổn chấp thuận là 10 triệu đô la và kế hoạch hành động trong vòng 48 tiếng đồng hồ và Toà Đại sứ Hoa Kỳ không được liên can.


Theo các tàl liệu được giải mật sau này cho thấy Henry Kissinger thoạt đầu không quan tâm đến tình hình của Chí LợI nhiều, nhưng ông cũng tham gia vì muốn chứng tỏ thực tài cho R. Nixon thấy mà thôi. Theo kế hoạch của Kissinger thì một toán đặc nhiệm công tác đươc hình thành từ Langley, Virginia. Tổ chức gồm hai đường dây: chính thức (qua ngả ngoại giao) và bí mật (không thông qua Bộ Ngoại Giao và Toà Đạí Sứ, nhằm tổ chức đảo chính và bắt cóc tướng Tư Lệnh Quân ĐộI Rene Schneider, mổi sĩ quan tham gia được tặng 50.000 Đô la và hai ngườI trực tiếp điều hành kế hoạch này là Richard Helms và Thomas Karamessines). Toán công tác nhận định rằng tình trạng phân hóa trong quân độI, sự trung thành đối với tướng Schneider và hiến pháp sẽ làm trì trệ kế hoạch. Nhưng Henry Kissinger bất chấp và ra lệnh phải tiến hành. Ngay trong đường giây thứ hai thì chính Kissinger cũng chia làm hai loại nhóm tướng lành cũa Chí Lợi để hợp tác khác nhau. Nhóm thứ nhất là tướnng Roberto Viaux và Arturo Marshall. Nhóm naỳ đã có lần tổ chức đ"o chánh vào năm 1969 nhưng không thành công và bị quân độI cũng như chính giớI không coi trọng. Nhóm thứ hai, tương đối khả kính hơn do tướng Camilo Valenzuela cầm đầu. Kissinger chấp thuận cung cấp vủ khí cho Tương Roberto Viaux, ngườI thi hành kế hoạch này. Sau thờI gian tiếp xúc thì CIA nghi ngờ khả năng hành động của nhóm Tướng Roberto Viaux, dù trườc đó đã giao 20.000 đô la tiền mặt và một khế ước bảo hiễm nhân thọ cho y với trị giá 250.000 đô la. Cuối cùng Nixon đi đến quyết định ủng hộ nhóm tướng Valenzuela và thúc hối hành động. Đêm 18 tháng 10 năm 1970 nhóm của tướng Valenzuela tổ chức bắt cóc Tướng Schneider nhưng thất bại vì ông này vào giờ chót đổI ý  dùng xe riêng đi thay vì công xa. CIA hốt hoảng, thúc hối nhanh hơn và tiếp tục trả thêm cho nhóm Tướng Valenzuela 50.000 đô la nửa. Đêm 20 tháng 10 một cuộc bắt cóc lần thứ hai lại thất bại. Ngày 22 tháng 10 CIA tiếp tục giao vũ khí cho nhóm tướng Valenzuela. Nhưng cùng ngày này thì Tướng Scheider lại bị giết bởI nhóm của tướng Roberto Viaux. Do tài liệu cúa Toà án Quân Sự Chí lợI sau này cho thấy thủ phạm lại chính là ngườI cùng một lúc ờ trong hai nhóm của hai đường giây khác nhau. Trong tất cả các tài liệu của Hoa Kỳ ngườI ta không tìm ra được một bằng chứng cho thấy là Hoa Kỳ công khai ra lệnh giệt hoặc bắt cóc và thủ tiêu Tướng Schneider. Trong việc chuyển giao vũ khí cho Tướng Valenzuela cũng không có một văn bản nào kết luận được là Hoa Kỳ giao vủ khí để sử dụng vào mục tiêu thanh toán Tướng Schneider.
Những bằng chứng được tác giả nêu ra là:
1. Brian MacMaster, một nhân viên CIA, lúc đó giả dạng là một doanh nhân làm ăn tại Chí Lợi, khai rằng sau vụ mưu sát này CIA vẫn tiếp tục trả tiền cho các thuộc viên của nhóm tướng Viaux bị ngồi tù để buộc phải câm tiếng.
2. Đại Tá Paul M. Wimert, Tùy viên quân sự Toà Đại Sứ, là người chiu trách nhiệm liên lạc với nhóm Tướng Valenzuela, khai rằng, sau vụ mưu sát ông đòi Valenzuela trả 50.000 "ô la và 3 khẩu súng lại và ông vứt vũ khí này xuống biển để phi tang. Người đồng lỏa với ông là Henry Hecksher, Trường nhóm CIA, trước đó đã xác nhận với Washington là cà hai nhóm hợp tác đều có khà năng thực hiện đảo chánh thành công.
3. Trong văn thư cuả Kissinger gởi đi ngày 15 tháng 10 không có bằng chứng nào chứng tỏ là Hoa Kỳ đình chỉ hợp tác với nhóm Tướng Viaux. Ngược lại điện văn của Bộ Ngoại Giao gởi cho Henry Hecksher ngày 20 tháng 10 cho thấy sự lo lắng cuả các giới chức cao cấp khi hay tin hai lần mưu sát Tướng Schneider bất thành. Sau này Thomas Karamesines xác quyết là sự quan tâm này đến từ Henry Kissinger-
4. Đại Sứ Edward Korry cũng khai rằng Kissinger đã ép ông đứng ra nhận hết tội trong vấn đề này vì Kissinger cho là xui xẻo và không muốn dính tới.
Ở cuối chương tác gỉả trich dẩn những đoạn trong Hồi Ký của Kissinger qua  những lần gặp gở Pinochet vả so sánh quan điểm trình bày với những biên bàn chính thức của Bộ Ngoại Giao. Những vấn đề nhân quyền, đàn áp đói lập, bang giao hai nước và phát triên tổ chức Châu Mỹ La tinh (OAS) viết ra đều trái ngưọc nhau.
Chương 6 bổ túc thêm về tội trang cúa Henry Kissinger về vụ Chí Lợi. Kết quà một cuộc điều tra vào tháng 9 năm 2000 được gọi là Hinchey Amendment  cho thấy những yếu tố mới :
- CIA đã hợp tác với ba nhóm Tướng lành khác nhau đề đảo chánh, chứ không phải là hai nhóm như được biết từ trước đến nay. Cả ba nhóm đều đổng ý là phải bắt cóc Tướng Schneider, vì ông này chủ trương quân "ội phải tuân theo hiến pháp và đồng ý cho Allende nắm quyền. CIA chỉ cung cấp vủ khí cho môt nhóm tướng lảnh mà thôi và không có ý định giết Tướng Schneider. Cuối cùng CIA hợp tác với nhóm thứ hai, nhưng trưóc đó bốn ngày đã ngưng yểm trợ vì nhận định là đảo chánh sẽ không thành công.
Tác gỉả nêu lên một phản chứng khác :
-  Đến tháng 11 năm 1970 một thành viên trong nhóm cúa Tüóng Viaux đã trốn thoát cuộc lùng bắt và liên lạc được với CIA để xin giúp đở tiền bạc. CIA đã trả cho người này 35.000 đô la để mong là im tiếng. Tác giả suy đoán lệnh trả tiền phaỉ do Kissinger duyệt y, vì CIA tại Chí Lợi khộng có thẩm quyền này.
Ở  cuối chương này tác gíả dẩn chứng về sự hợp tác cuá CIA với tên trùm mật vụ của Pinochet là Manuel Contreras. CIA xác nhận giúp đở cho Contreras, nhưng chỉ nhằm thêm phương tiện kỷ thuật và huyện luyện nhân viên tình báo để Chí Lợi có phưong tiện chống ngoại xâm chớ không phải dùng để đàn áp đối lập.Tác già chứng minh ngược lại là Chí lợi không có ngoại thù, mà chỉ có nhân dân chống chế độ Pinochet. Dầu biết Pinochet vi phạm nhân quyền với các phương tiện cuả CIA hổ trợ cho Contreras, Hoa Kỳ vấn làm ngơ vì những quyển lợi của Hoa Kỳ tại Chí Lợi. 
Chương 7 cáo giác tội trạng cúa Kissinger trong việc can thiệp vào nội bộ tại Zypern.
Đây là một đảo với 82% dân Hy lạp và 18% dân Thổ sinh sống. Tổng Thống Makarios của Zypern được dân chúng bầu ra. Nhưng độc lập của Zypern là cái gai cho Hy lạp và Thổ. Cả hai đều muốn xác nhập Zypern vào nước cúa mình, cả hai đều ủng hộ các tổ chức nổi loạn, gây bạo động để chống đối lẩn nhau. Trước tình hình này Kissinger cho là chế độ của Makarios chính là đầu mối cho sự bất ổn tại Zypern và gây nguy hại cho tình hình chung trong vùng. Dimitros Ioanini-des, Trưởng cơ quan tình báo của Hy Lạp lập kế hoạch nhằm lật đổ Makarios vằ muốn đặt Zypern dưới quyền kiểm soát của Hy Lạp.
Hoa Kỳ đã yểm trợ kế hoạch này. Henry Kissinger đả biết tin đảo chánh trưóc hai tháng trước đó, tức là tháng năm 1974, nhưng ông không phản ứng gì. William Fulbright, Chủ tịch Ủy Ban Ngọai Giao Thượng Viện, ngay sau khi biết tin đảo chánh này do một ký gìả Hy lạp là P. Demetracopulous cung cấp, ông đã yêu cầu Kissinger tìm mọi biện pháp ngoại giao để ngăn chận, nhưng Kissinger chối từ viện cớ đây là nội bộ của Hy lạp. Những bằng chứng cho thấy Ioannides liên hệ với CIA trong khi Bộ Ngại Giao Hoa Kỳ không phản ứng gì trước tình hình càng sôi động. Sau ngày đảo chánh, trước áp lực nặng nề Kissinger đã họp báo giải oan là khộng nhận được tin tức gì liên quan vấn đề. Thực ra ông có đủ mọi nguốn tin từ chính thức cho đến tin tình báo về diển biến tình hình. Việc quyết định cho Nicos Samson nắm quyền đều do CIA sắp đặt và chi trả phí tổn. Trong một hồi kỳ cuả Tướng Grigorios Bonanos, Tư Lệnh Quân Đội Hy Lạp in năm 1986 tại Athen tựa là Sự Thật đã phơi bày là: Cuộc tấn công vào đảo Zypern được chính thức ủng hộ cúa Thomas A. Papas, người trung gian liên hệ giủa nhóm đảo chánh và Nixon-Kissinger.
Kế hoạch đảo chánh thất bại làm hàng ngàn ngưới chết và 200.000 người ty nạn. Mặc dù Makarios trốn thoát được và tìm cách vận động trở về nắm quyền nhưng Kissinger luôn tìm cách ngăn trở. Ông cũng không công nhận Makarios là Tổng Thống của Zypern nửa. Sau nhiều áp lực từ Thượng Nghị Sĩ William Fulbright, Chủ Tich Uỷ Ban Ngoại Giao Thượng Viện và Dân Biểu Thomas Morgan, Chủ Tich Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện, người chính thức mời Makarios đến thăm Washington, Kissinger mới chiụ tiếp kiến Makarios.
Kissinger cũng lượng giá được tình hình: ngaỳ nào Hy Lạp còn muốn nắm quyền thì Thổ cũng sẽ tìm cách phản công quân sự. Ông luôn tìm cách ngăn trở về phục hồi cúa Makarios qua hổ trợ quân sự cuà Thổ hay Anh Quốc. Sir Tom Mcnally cuả Bộ Ngoại Giao Anh cũng đã có tái liệu minh chứng điểu này.
Chương 8 buộc tội Henry Kissinger trong việc chủ mưu diệt chủng nhân dân Osttimor.
Đảo Timor trước đây thuộc Bồ Đào Nha sau này bị Indonesien xác nhập. Phòng trào đấu tranh dành độc lập của FRETILIN được dân chúng trong đảo ủng hộ và gây đưọc thiện cảm cuả ngoại quốc. Ngaỳ 7 tháng 12 năm 1975 Indonesien tấn công quân sự lên đảo Timor. Một sự kiện đáng lưu ý là cùng ngày này Tổng Thống Ford và Ngoại Trưởng Kissinger đến Đảo Hawaii sau khi di thăm Indo-nesien về. Một câu hỏi được báo chí đặt ra tại phi trường Hawaii cho Tổng thống Ford là Hoa Kỳ có bật đèn xanh cho cuộc đàn áp này không. Ông Ford không trả lời và hẹn vào một dịp khác. Sau đó qua một thông cáo báo chí cho biết Hoa Kỳ rất quan tâm tơỵ tình hình tại Osttimor, đặc biệt là sự sử dụng bạo lực. Tổng Thống Ford hy vọng rằng mọi sự sẽ hoà giải tốt đẹp.
Khi tin tức chi tiết về sự tàn sát tại Osttimor được báo chí tường thuật, nghi vấn về sự hổ trợ cúa Hoa Kỳ, đặt biệt và việc cung cấp vủ khí, càng được đặt ra nhiều hơn. Đai Sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc là Daniel Patrick Moynihan trong hồi kỳ của ông tựa là A Dangerous Day, cũng đã lộ nhiều chi tiết vể cuộc đàn áp này, dủ không ám chỉ đích danh Henry Kissinger.
Ngày 11 tháng 7 năm 1995 trong khi đi giới thiệu tác phẩm mới cúa mình là Diplo-macy,  Kissinger đã gặp các nạn nhân và vấn đề được đặt ra.
Trả lời câu hỏi của ông Constancio Pinto, một lãnh tụ của Phong tràỏ đấu tranh Osttimor, Kissinger cho biết là việc ông đến Indonesien vào thời điểm này hoàn toàn tình cờ. Tổng thống Ford và ông dự trù đi Trung Hoa trong năm ngày. Mao Trạch Đông đang bi bịnh nặng và phong trào Tứ Nhân Bang gây bất ổn nội tình Trung Hoa khiến ông Ford quyết định Hoa du chì có hai ngày và thay đổi chương trình đi thăm Phi Luật Tân một ngày rưởi và Indonesien một ngày rưởi. Trong cuộc hội kiến tại Indonesien thì vấn đề Osttimor không nằm trong chương trình nghị sự. Ngay khi ông đến phi trường thì mới biết được tin, nhưng ông không rỏ số nạn nhân. Ông không hề taọ đìều kiện cho người Bồ Đào Nha ở lại. Khi người Indo-nesien thông báo tình hình ông cũng không ủng hộ hay chống đối. Theo ông, Osttimor không phải là cường quốc và không n"m trong ảnh hưởng cũng như quan tâm cuả Hoa Kỳ.
Ông Allan Nairn, một ký giả Hoa Kỳ, nạn nhân còn sống sót của cuộc tàn sát ngày 12.11.1991 tại Timor cũng có mặt trong buổi này và phản chứng những đìều Kissinger nóí. Theo tài liệu cúa ông thu thập từ Bộ Ngoại Giao, dù không đầy đủ, cũng cho thấy là Kissinger đã thảo luận vấn đề này với Suharto trước khi có đàn áp. Trong một cuộc phỏng dành cho ông Nairn, Tổng Thống Ford cũng xác nhận là đề tài Timor được đặt ra trong lúc gặp Suharto. Một bẳng chứng khác được ông Nairn đưa ra là một biên bản buổi họp tại Bộ Ngoại Giao ngày 18.12.1975. Theo biên bản này thì Kissinger sau khi đi Indonesien về đã khiển trách nhân viên nặng nề vì đã để ông Leigh, một luật sư cố vấn của Bộ lên tiếng ch" trich. Theo ông Leigh thì việc Indonesien tấn công vào đảo Timor là vi phạm luật quốc tế và vi phạm hiệp ước với Hoa Kỳ trong việc sử dụng vủ khí. Kissinger trả lời tiếp là Timor không phải là một vấn đề lớn nằm trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, mà là một vấn đề hậu thuộc điạ. Chuyện khiển trách nhân viên là một phần để lấy lòng Indonesien, một phần là vấn đề nguyên tắc làm việc. Các vấn đề vi phạm nhân quyền phải được thoả luận trong Bộ trước khi đưa ra công luận
Tác giả nêu một bằng chứng từ tài liệu của C.Philipp Liechtey, Trưỏng nhóm CIA tại Indonisien. Liechtey xác nhận có sự hổ trợ chinh trị từ Bộ Ngoại Giao và yểm trợ vũ khí cho các cuộc đàn áp. Ở cuối chương toàn văn biên bản ngaỳ 18.12.-1975 tại Bộ Ngoại Giao được đem ra phân tích chi tiết để kết tội Kissinger,
Chương 9 đưa ra ánh sáng vụ giết một ký gỉa người Hy lạp bút hiệu  P. Deme-tracopoulos ngay tại Washington D. C. mà Henry Kissinger trực tiếp tham gia.
Demetracopoulos là một kỳ giả nối danh chống chế độ quân phiệt Hy Lạp nhưng  ông cũng là một nhà tư vấn và cung cấp tin tức cho nhiều chính giới tại Hoa Kỳ về nội tình Hy Lạp. Demetracopoulos từ lâu là một cái gai cho Kissinger vì ông biết quá nhiều tin tức tối mật cuả Hoa Kỳ, điển hình là vụ tiền quyên góp 549.000 "ô la cúa Tình Báo Hy Lạp cho Nixon để vận động tranh cử qua trung gian của một doanh nhân Hy lạp tên Thomas Papas A. FBI đã theo dỏi những hoạt động của ký giả này từ lâu. Chính quyền Hy Lạp cũng tước quốc tịch của ông và Tình báo Hy Lạp có nhũng âm mưu tổ chức bắt cóc và dẩn độ ông này về Hy Lạp để xét xừ. Kế hoàch này được CIA hổ trợ. Theo một tài liệu của William A. Dobrovir, một luật sư của Demetracoupolos, tổng hợp từ nhiều nguồn tin khác nhau của FBI, CIA, Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp và Bộ Quốc Phòng thì chính  Kissinger là đòng lỏa. Trong Hồi kỳ In The First Line of Defense của Konstantin Panayota, Đaị sứ Hy Lạp tại Hoa Kỳ đã nêu lên bằng chứng về sự hợp tác này.
Chương 10 tố cáo Henry Kissìnger hợp tác với các chế độ độc tài trên thế giới qua tổ chức tư vấn của ông.
Ngay sau khi rời khỏi chính trường, ông lập một văn phòng tư vấn gọi là Kissinger Associates mục đích nhắm giúp giới doanh nhân tiếp xúc với các chính quyền trên khắp thế giới để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Khách hàng của ông là các doanh nghiệp khổng lồ như American Express, Searmon Learman, Arco, ITT, Lockhead, Cola Cola Fiat, Deawoo . . . 
Tại thi trường Trung Hoa ông đã làm trung gian thương thuyết cho các hảng H. L. Heinz, Atlatic Richfield/Arco và Chase Manhattan Bank. Qua trung gian của một thành viên là Lawrence Eagleburger, văn phòng ông cũng hợp tác làm ăn với LSB một ngân hàng của chế độ độc tài Bulgary và làm Đại diện Hoa Kỳ cho Tổ hợp Xây dựng quốc doanh cúa Nam Tư Yugo Enerjoproject, một tổ chức sản xuất vũ khí quốc phỏng. Một thành viên khác trong tổ chức cúa ông là Alan Stoga cũng công khai hợp tác vớ Sadam Hussein, mở ra một Iraq Business Forum nhằm giúp đở doanh nhân dể dàng đầu tư tại Iraq. Ông cũng hợp tác Tập đoàn đầu tư quốc tế Freeport Mc Moran, chuyên về khai thác quặng mỏ và khí đốt có trụ sở chính tại New Orleans. Một trong những kế hoạch cuả tập đoàn là xin phép khai thác quặng tại Miến Điện, phần kỹ thuật xây dựng do Daewoo thực hiện, nhưng việc này không thành. Ông cũng trợ giúp cho tập đoàn này trong các khai thác quặng mỏ tai Indonesien. Tóm lại hiện nay ông đang theo đuổi những quyền lỡi kinh tế cá nhân mà đôi khi tương phản vớí quyền lợi của Hoa Kỳ.
Chương cuối cùng có tựa đề là luật pháp và công lý. Tác giả đề cập tới một căn bản pháp lỳ để áp dụng trong trường hợp Henry Kissinger. Theo tác giả có bốn nguốn luật pháp hiện đại được áp dụng là: Luật quốc tế vế Nhân quyền, Luật chiến tranh, Hình Luật quốc tế và Hình Luật các quốc gia.
Tác giả ghi nhận rằng Công ước quốc tế về tội diệt chủng mới được phê chuẩn tư năm 1988, Công ước công nhận về các quyến dân sự và chính trị cũng được ký kế từ năm 1992 và những nguyên tắc của Toà án Nürnberg, tất cả đều không thể áp dụng cho các hành vi của Henry Kissinger vì nguyên tắc bất hồi tố trong các văn kiện này. Tác giả giải thích luật phong tục quốc tế sẽ là một căn bản pháp lý duy nhất để áp dụng cho trường hợp Henry Kissinger, đặc biệt các tội trạng liên quan đến chiên tranh Đông Dương. Tội danh diệt chủng này đã được Toà Án Quốc Tế công nhận từ năm 1951 vá nay thì Toà Án Hình Sự Quốc Tế có thẩm quyền.Trong việc cung ứng vũ khí cho Indonesien, theo tác gíả thì Henry Kissinger đã vi phạm luật pháp về vũ khí của Hoa Kỳ phải chịu tội trước toà án Hoa Kỳ.
Phản ứng cuá Henry Kissinger
Dư luận rất quan tâm đến phản ứng cuá Henry Kissinger từ ngày tác phẩm này ra đởi, nhưng cho đến ngày nay ông tuyệt nhiên không lên tiếng trả lời chánh thức về sự cáo giác này.
Tuy nhiên, trong tác phẩm Does America need a foreign policy " Henry Kissinger đã trả lờI một cách gián tiếp vấn đề này khi bàn về vai trò của Toà Án Hình Sự Quốc Tế. Ông viết: Phần đông ngườI Hoa Kỳ rất ngạc nhiên khi biết Toá Án Hình Sự Quốc Tế về nước Nam Tư cù được thành lập do chỉ thị của Hoa Kỳ trong năm 1993 để xét xử các phạm nhân chiến tranh, nhằm xác nhận lại quyền điêu tra của các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Hoa Kỳ trước những hành vi cào buộc là có tộI ác. Việc điều tra này vô hạn định và áp dụng cho tất cả. Ông phản đối việc áp dụng nguyên tắc Hình Luật Quốc Tế việc xét xừ các nhà lãnh đạo ngoại quốc trươc toà án này. Ông đặt câu hỏi: Làm sao tìm ra nguyên tắc an toàn pháp luật trong thủ tục tố tụng, đặc biệt là nguyên tắc trưng dẩn bằng chứng và bảo vệ bị cáo, làm sao có thể tách rờI vấn đề pháp lý ra khỏi những quyết địnnh chính trị quốc tế.
NgườI ta có thể nhận ra rằng ông đă ý thức sự nguy hiểm cúa vấn đề mà tác gíà đặt ra và cũng suy đoán là ông đang khởI đầu một cuộc biên hộ cho chính mình về những hành vi trong quá khứ.
Nhận xét:
Trước đây đã có nhiều tác phẩm phê bình về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ và của Henry Kissinger, nhưng đây là lần đầu tiên một hình thức cáo trạng vớI dày công sưu tập từ những tư liệu mớI được trình bày.
Qua hình thức thì đây là một công trình đáng ca ngợI cuả tác giả, một ký gíả chuyên về điêu tra báo chí (investigative journalism). Thiện chí này được tìm thấy qua nổ lực tìm kiếm từ nhũng nguồn tài lịệu khác nhau và phức tạp.
Qua nộI dung thấy được thì sự nghiên cứu cũa tác gỉa về lãnh vực Luật Quốc Tế, đặc biệt vể các phương thức hình sự tố tụng, còn hạn chế. Tác phẩm này không phái là một cáo trạng đúng nghía theo hình thức luật học, đặc biệt lại càng không đúng theo phương thức hình sự tố tụng trước Toà Án Quốc Tế khi mà các  kỷ thuật trưng dẩn các tài liệu thiếu khoa học và không thuyết phục. Tác già đã không nêu các bằng chứng xuyên xuốt, thống nhất; đôi khi lầm lộn giưả những sự kiện lich sử, hậu qủa pháp lý cũng như những phán đoán về đạo đức cá nhân của Kissinger; đôi khi những lời cáo buộc chỉ dựa trên những cãm xúc trước những bất công hơn là một lờI kết luận dựa trên cơ sở lập luận chặt chẻ của Hình luật. Trong tất cã các tội danh được cáo buộc thì phân liên hệ đến chiến tranh Đông Dương có nhìều tính thuyết phục và có triển vọng thành công trưóc Toà Án Quốc Tế nếu các tài liệu được bổ túc đầy đủ và khoa học hơn.Trở ngại chủ yếu vẫn là tài liệu từ người trong cuộc. Hiện nay các tư liệu cúa Henry Kissinger đã được ký gởI tại Thư Viện Quốc HộI Hoa Kỳ, không được khai thác. Theo di chúc cúa ông thì các tài liệu này được phép sử dụng sau khi ông chết năm năm. Do đó một đề án khơỉ tố ông hiện nay khó có cơ may thành công.
Tác phâm này là một gương can đảm cúa tác giả, nó đã gây tiếng vang về mặt chính trị, liệu ngươi Việt Nam, những nạn nhân trực tiếp cuả Henry Kissinger còn sống sót có khả năng, thiện chí và nổ lực để khới tố thủ phạm hay không hay chỉ tiếp tục  ngậm ngùi than rằng: con kiến mà kiện củ khoai. Ước mong sao vấn đề này sẽ được thảo luận sâu rộng hơn.
Đỗ Kim Thêm. 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.