Bắt đầu giai đoạn bất hoạn bần, hoạn bất an. Nếu bất an ninh đã là mối lo lớn, bất an thân lại là mối lo lớn hơn. Nó sát sườn, dinh liền với sự sống, cái chết của mỗi một người . Từ đó, vì lý do sống chết của chính mình, ai cũng chạy đôn, chạy đáo, tìm thầy, chạy thuốc. Giá tiền khám, hoá đơn mua thuốc cao , làm hoảng hồân , hoảng vía , cuốn lên. Lương tối thiểu, tài khoản khiêm tốn của thân nhân bảo trợ sọ như muối bỏ biển. Không tài nào kham nổi.
Thực vậy, về mặt y tế, nước Mỹ là quốc gia duy nhứt trong các quốc gia đã kỹ nghệ hóa, chánh quyền không có chương trình y tế miển phí cho mọi người. Trên nguyên tắc, người bịnh phải tự trả mọi dịch vụ y tế cho bác sĩ, cho nhà thương. Trong khi các quốc gia Âu châu, chánh quyền trả 80 % y phí cho người dân, Hoa kỳ chỉ trả chưa tới phần nửa số ấy (United Nations Development Programme, 1998).
Tại Mỹ, người giàu có thể trả tiền để được hưởng những dịch vụ y tế tốt nhứt thế giới. Nhưng dân nghèo không được chữa trị như những người cùng số phần ở Aâu châu. Sự khác nhau ấy được thấy rõ trong tử suất của trẻ em và người lớn giữa Mỹ và một số nước ở Aâu châu.
Tại sao Mỹ là nước giàu mạnh nhứt mà không có chương trình chăm sóc sức khỏe miển phí như các nước Aâu châu. Thứ nhứt, lịch sử Mỹ có truyền thốâng xem tự do cá nhân quan trọng hơn vai tròø của nhà nước. Thứ hai, các thế lực chánh trị không yễm trợ đủ mạnh cho nền y tế quốc gia. Ngay như các nghiệp đoàn cũng chỉ tranh đấu cho quyền lợi y tế công nhân đối vớiø giới chủ thay vì dối với nhà nước. Thứ ba và quan trọng nhứt, hiệp hội các y sĩ, và các tổ chức bảo hiểm y tế liên tục chống đối các đề nghị về chương trình y tế quốc gia (Starr).
Trong lúc đóù theo ước tính, số tiền tốn cho việc chăm sóc sức khỏe tăng một cách chóùng mặt. Năm 1950 làø mười hai tỷ. Năm 1996 vọt lên một ngàn tỷ Trung bình mỗi đầu người phải chi 3300 đô la mỗi năm, cao hơn bất cứ các nước Aâu châu.
Ai là người trả số tiền này" Thứ nhứt là các hãng bảo hiểm tư. Năm 1996, giới chủ nhân hay nghiệp đoàn đóng 61%. Chỉ có 9% là do cá nhân tự đóng. Thứ hai , các chương trình bảo hiểm sức khỏe của Nhà Nước đài thọ. Năm 1997, Medicare chi trả cho 38.000.000 người (38 triệu người) trên sáu mươi lăm tuổi; Medicaid, 26.000.000 người nghèo. Tính chung hai chương trình của Nhà Nước bảo bọc được 35% dân số.
Nói gọn, khoảng 80% dân số Mỹ được hưởng dịch vụ y tế mà không phải tự trả tiền. Có 26% những người này thuộc Chương trình HMO (Health Maintenance Organization), môt hiệp hội cung ứng dịch vụ y tế toàn khoa với y phí cố định. Không tổ chức nào dám bao thầu toàn bộ y phí. Y phí nhứt định nên có thể làm các tổ chức HMO lời hay lổ. Lời nếu người được bảo hiểm ít ốm đau, chạy chữa. Y khoa phòng ngừa được đặc biệt chú trọng. Do bảo hiểm không bao thầu trọn vẹn, không bảo bọc trọn vẹnï, gánh nặng tiền thầy, tiền thuốc, đặc biệt là trường hợp bịnh nặng, lại rơi vào người dân vốn khả năng tài chánh thường là khiêm tốn.
Nhưng tệ hại nhứt phải là 42.000.000 người Mỹ,(khoản 16% dân số) chẳng được một thứ bảo hiểm sức khỏe bởi nhà nước hay tư nhân nào cả. Số người đáng thương ấy là ai" Là những người bị tạm thời mất việc, đổi việc, không đủ già để có Medicare, không dủ nghèo để xin Medicaid. Trong số đó ù người Việt tỵ nạn ở Mỹ chiếm tỷ số khá cao.
Đa số người Việt tỵ nạn rời quê hương trong lứa tuổi chưa già nhưng không còn trẻ lắm. Chưa đủ sáu mươi lăm để hưởng trợ cấp y tế. Tóc hoa râm, không đủ thì giờ học hành , rèn luyện kỹ năng, thu đạt kinh nghiệm để kiếm được việc làm thường trực, với bảo hiểm y tế của công ty. Y tế Mỹ tân kỳ nên mắc mỏ, vượt ngoài khả năng tài chánh của người đi làm với đồng lương tối thiểu hay việc bán thời gian. Một bài toán gần như không có lời giải đối với đa số người Việt tỵ nạn có tuổi tại Mỹ
Đó là lý do tại sao Trung tâm Y tế Nhân Hòa là "nhà thương" của người Việt ở Little Saigon. Không biết tự bao giờ, thuật ngữ nhà thương được con cháu của những người Nam Tiến sau cùng của Dân tộc Việt, sửõ dụng để chỉ bịnh viện. Bốn cái khổ của chúng sinh, sanh, bịnh, lão, tử, không ít thì nhiều đều trải qua nơi gọi là nhà thương ấy. Tình tự, gắn bó của con người đang khổ với nơi và người cứu khổ, là thương. Nơi tình xảy ra, trìu mến, thân mất là nhà. Thuật ngữ nhà thương có lẽ phát sinh từ ấy, trong lớp lưu dân Nam tiến, lúc còn phải chống chọi với rừng thiêng, nước độc, với nỗi cô đơn vằng vặc nơi đất mới, và nỗi nhớ Miền Trung, Miền Bắc ngàn dặm xa xăm.
Thuật ngữ ấy sống lại, tình tự ấy hồi sinh tại Little Sàigon, giờ đã cách xa nước nhà nửa vòng trái đất, tại Nhân Hòa, một trung tấm y tế mà Người Việt, kinh tế khiêm tốn, đều có dịp đi về như nhà của mình.
(Mùa xuân thứ tư trên đất Mỹ)