Hôm nay,  

Học Giả, Dịch Giả Olgar Dror Viết Về Nhã Ca & ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’ (Hết)

17/02/201510:00:00(Xem: 11677)

Nguyên tác Anh ngữ: Olga Dror

Bản dịch Việt ngữ: Huỳnh Kim Quang

image002Như toàn văn lịch sinh hoạt tại Berleley đã phổ biến, Thứ Tư 25 tháng Hai 2015, nhằm ngày mùng bảy Tết Ất Mùi, sách “Mourning Headband for Huế” --từ nguyên tác tiếng Việt “Giải Khăn Sô Cho Huế” của Nhã Ca -- chính thức thành đề tài thảo luận tại Đại Học Berkeley, với hai diễn giả chính là Nhã Ca, người viết, và Olga Dror, người dịch.
February 2015
Mourning Headband for Hue
Reading - Literary | February 25 | 4-6 p.m. | 180 Doe Library
Featured Speaker: Nha Ca, writer
Speaker: Olga Dror, Associate Professor of History, Texas A & M University
Sponsor: Center for Southeast Asia Studies
This book event will highlight the new English-language translation of prominent Vietnamese writer Nha Ca's memoir Giai khan so co Hue, which was first published in 1969 as an eyewitness chronicle of the suffering of Vietnamese civilians caught in the city of Hue during the 1968 Tet offensive.
This event will include remarks on the translation by Prof. Olga Dror, the book's translator [in English], and commentary about the book itself by Nha Ca [in Vietnamese, with English language translation provided]
Nha Ca was born in Hue, Vietnam in 1939, but moved to Saigon after her marriage where she established a literary career. After the fall of South Vietnam in 1975, Nha Ca was incarcerated by the new national government. She was allowed to emigrate to the West with her family in 1989 and now lives in southern California.
Olga Dror was born in the Soviet Union and received an M.A. in Oriental Studies from Leningrad State University in 1987. She emigrated to Israel in 1989, and later moved to the U.S. to study Vietnamese history at Cornell University. She received her Ph.D. from Cornell in 2003, and has been a member of Texas A&M's faculty since 2004. Event Contact: cseas@berkeley.edu, 510-642-3609; 322 Wheeler Hall. Berkeley CA 94720 :: 510.642.3467 UC Berkeley.
Tuy giỏi nhiều ngôn ngữ và từng trực tiếp dịch bút ký truyền giáo ở Việt Nam của Linh Mục Adriano di Santa Thecla từ tiếng La Tinh, hay bút ký chạy loạn Huế Mậu Thân của Nhã Ca từ Việt ngữ sang Anh ngữ, công việc chính của Olga Dror là nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam tại Texas A&M University. Đó là lý do trong ấn bản Mourning Headband for Hue, ngoài phần dịch thuật, Olga Dror còn có thêm “Translator’s Introduction”, (Giới Thiệu của Dịch Giả) bổ cứu công phu, phân tích tỉ mỉ các quan điểm về Chiến Tranh Việt Nam và trận chiến Huế. Sau đây là bản dịch bài viết công phu của bà về “Giải Khăn Sô cho Huế” và tác giả Nhã Ca.


image007Trong số quan điểm [từ phía cộng sản và phía chống cộng] mà tôi nói đến ở đây, Giải Khăn Sô Cho Huế ở vị thế trung lập đại diện người không ảo tưởng, những người đứng ở lập trường trung lập trong cuộc chiến, chỉ trích chiến tranh. Dù những tranh luận về ý thức hệ có thể xảy ra, tác phẩm của Nhã Ca nổi bật lên bởi vì tiếng nói mạnh mẽ làm sáng tỏ những kinh nghiệm của người dân bị mắc kẹt nhiều tuần lễ trong trận chiến khủng khiếp.

TẠI SAO CHÚNG TA NÊN ĐỂ TANG CHO HUẾ

Cho tới nay, Huế không còn được phép chính thức có một ngày giỗ chung, cùng hướng về những người chết tức tưởi trong Tết Mậu Thân.” (Nhã Ca, Giải Khăn Sô Cho Huế)

Có thể không có cảnh tắm máu sau khi Sài Gòn thất thủ và Việt Nam thống nhất, nhưng có nhiều hệ lụy. Nhiều ngàn người bị đẩy vào các trại tù học tập cải tạo, gồm Nhã Ca và chồng của bà, Trần Dạ Từ; hàng trăm ngàn người bỏ trốn hay cố gắng bỏ trốn bằng thuyền, với nhiều ngàn người chết trên biển hay bị bắt ngay trước khi rời bờ biển Việt Nam. Một sĩ quan cao cấp của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Nguyễn Công Luận, phản ảnh về biến cố Huế trong hồi ký xuất sắc của ông:
“Nhiều năm sau, vào năm 1972, những hình ảnh kinh khủng của các mồ chôn tập thể năm 1968 đưa đẩy nhiều chục ngàn người từ mọi tầng lớp xã hội sống tại Huế và Quảng Trị đi theo con đường tị nạn chiến tranh. Các phóng viên gọi nó là “bỏ phiếu bằng chân.” Những cuộc di tản kinh hoàng từ các thành phố thuộc phía bắc Nam Việt Nam lại xảy ra lần nữa càng bi thảm hơn vào tháng 3 năm 1975 trước khi Nam Việt Nam bị thất thủ. Rõ ràng là sau đó người dân từ Huế và các tỉnh lân cận đã chiếm một tỉ lệ đáng kể của số thuyền nhân Việt Nam vượt biên khỏi Việt Nam sau khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền Cộng Sản đã xua đuổi rất nhiều thân nhân của các nạn nhân vụ tàn sát năm 1968 tại khu vực Huế và tái định cư họ tại “Những Vùng Kinh Tế Mới” xa xôi.” Điều kiện sinh sống tại “Những Vùng Kinh Tế Mới” thì rất khắc nghiệt.”(103)

Gần một nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ năm 1968. Chính quyền Việt Nam vẫn mô tả Tết 1968 nói chung và trận chiến Huế nói riêng như là một đại chiến thắng. Chẳng hạn, vào ngày 1 tháng 1 năm 2008, Bộ Quốc Phòng và Tỉnh Ủy tổ chức một “hội nghị khoa học”, chủ đề “Trận Tấn Công và Nổi Dậy của Mùa Xuân Mậu Thân 1968,” để kỷ niệm năm thứ bốn mươi biến cố này. Lê Khả Phiêu, cựu tổng bí thư Đảng Cộng Sản (1997-2001); Thượng Tướng Phan Trung Kiên, Ủy viên Trung Ương Đảng và thứ trưởng Bộ Quốc Phòng; và các viên chức và học giả khác đã có mặt. Vấn đề của vụ tàn sát và ai chịu trách nhiệm cho sự kiện đó đã không được chính thức bàn đến.
Những phản ánh của Lê Minh và Hoàng Phủ Ngọc Tường về thảm kịch Huế, được thảo luận đến ở trên, cho thấy một đường nứt có khả năng dẫn tới một sự cởi mở hơn, và có lẽ ngay cả trong chiều hướng có thể có “một ngày giỗ chung, cùng hướng về những người chết tức tưởi trong Tết Mậu Thân.”(104) Dù nhiều năm đã trôi qua sau những phản ánh xuất hiện đó, chưa có điều gì xảy ra cả.
Những ai đã từng sống qua cơn ác mộng của Huế và những người muốn nhìn thấy các sự kiện đó nhận ra rằng có hàng chục trang mạng toàn cầu với những hình ảnh và chứng cứ từ thời điểm đó đã được tạo ra. Nhưng không có sự thừa nhận chính thức của Hà Nội, thì một cuộc đối thoại là không thể có. Tác phẩm của Nhã Ca đã không được xuất bản tại Việt Nam sau chiến tranh; dù nhiều cuốn trong đó, gồm Giải Khăn Sô Cho Huế, có thể tìm đọc được trên mạng lưới toàn cầu, điều này không dẫn tới một cuộc đối thoại với các cơ chế học thuật và chính trị hay với sự quan tâm công khai tại Việt Nam hiện nay.
Nó không phải chỉ quan trọng đối với người Việt mà còn với người Mỹ nữa. Dù tiếng nói của Nhã Ca và tiếng nói của người Việt Miền Nam và Miền Bắc khác mà có thể đem đến sự chú ý của công chúng thì có thể thay đổi quan điểm của chúng ta về chiến tranh và về những gì đã xảy ra tại Huế, hay ít nhất cũng mở ra được đối thoại, tôi không biết. Trong bất cứ trường hợp nào, đây không phải là mục đích quan trọng nhất của tôi, dù tôi sẽ vui vẻ nếu điều đó diễn ra và nếu một ngày nào đó người dân Việt Nam có thể cùng nhau tưởng niệm những người đã chết ở thời điểm Tết Mậu Thân tại Huế, như Nhã Ca cũng đã ao ước.
Mục đích của tôi với tác phẩm này là làm cho sự quan tâm của chúng ta về chiến tranh càng nhập cuộc hơn và khuyến khích bất cứ ai muốn suy ngẫm về vấn đề này có được một căn bản rộng hơn để đạt được kết luận của chính họ.
Giải Khăn Sô Cho Huế được viết trong những tháng sau biến cố tại Huế. Nó cung cấp cơ hội để cho mọi người biết, dù trễ, với quan điểm của người Việt Miền Nam về những gì đã xảy ra tại thành phố đó. Nó là cái nhìn về chiến tranh không qua cặp mắt của một người lính hay một nhà chính trị nhưng qua cặp mắt của những người dân. Những người dân đó đã không có chọn lựa trong cuộc chiến nhưng bị đẩy vào giữa chiến trường kinh hoàng bởi quân đội cùng là đồng bào và các chính trị gia là những người nói thao thao về các chính sách chiến tranh, điều khiển cuộc chiến, và sau đó viết sách về nó. Cuốn sách này mô tả kinh nghiệm của những người dân bình thường mà cuộc đời họ bị thay đổi một cách nghiêm trọng hay bị cắt ngắn bởi bạo lực của chiến tranh; nó là về “những người khác,” những người bị bắt trong vùng khói lửa bom đạn, những người còn sống sót, và những người không còn sống. Nó không phải là cuốn tiểu thuyết, không là tác phẩm hư cấu, mà là cuốn sách mô tả không bóng bẩy về các sự kiện như được chứng kiến qua cặp mắt của tác giả và những người chung quanh bà vào lúc đó. Nó cho chúng ta “những bức ảnh chụp tức thì” của cuộc sống bị hủy hoại và vỡ nát ở thời điểm Trận Tấn Công Tết. Nhưng nó cũng bày tỏ những quan điểm khác nhau về các bên Cộng Sản, Quốc Gia, và Mỹ của cuộc chiến từ các thắng lợi của những người khác nhau.
Một vài đoạn trong cuốn sách liên hệ tới cùng các sự kiện hay mô tả cùng những khuôn mặt như họ được nghe thấy bởi nhiều người, và điều này bổ túc thêm cho sự hiểu biết của chúng ta về tình cảnh phức tạp tại Nam Việt Nam vào lúc đó và tạo ra phong cách gợi nhớ của cuốn phim Rashomon, bộ phim nổi tiếng của đạo diễn người Nhật Akira Kurosawa dựa trên truyện ngắn “Trong Khu Rừng Nhỏ” của nhà văn Nhật Akutagawa Ryunosuke.
Bất luận quan điểm chính trị nào, Giải Khăn Sô Cho Huế nhắc nhở chúng ta để tang cho người Huế, cho dân tộc Việt Nam, cho sự tự hấp thụ các chính sách của đại cường tại Việt Nam, và cho sự từ chối của chúng ta để tìm hiểu thêm về “những người khác,” mà ngay đến ngày nay vẫn tiếp tục ám ảnh các chính sách của chúng ta đến các quốc gia khác.
Olga Dror
Tháng 1 năm 2014


Ghi chú

(103) Nguyễn Công Luận, Nationalist in the Viet Nam Wars: Menoirs of a Victim Turned Soldier [Người Theo Chủ Nghĩa Dân Tộc Trong Các Cuộc Chiến Tại Việt Nam: Hồi Ký của Một Nạn Nhân Trở Thành Người Lính] (Nxb Indiana University Press, Bloomington và Indianapolis, 2012), trang 581-82n3.

(104) Nhã Ca, Giải Khăn Sô Cho Huế (Việt Báo, USA, 2008), trang 9.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
"Ngày xuân đi chùa, lễ Phật là một phong tục đẹp nhằm nâng cao tâm hồn con người và gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ Phật ngày xuân còn để cảm nhận cái Chân-Thiện-Mỹ, khơi dậy tính Thiện, cảm nhận cái đẹp của cảnh xuân, cảnh chùa, hầu trở về bản tính thiện lương của con người. Đạo Phật và chùa chiền khắp thế giới nơi nào cũng có. Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia thờ Phật, xây đền, chùa thường theo một kiến trúc na ná nhau nhưng dân tộc nào cũng có pha trộn những nét đặc thù riêng". -- Nhà văn/ nhà báo Trịnh Thanh Thủy giới thiệu những ngôi chùa nổi tiếng vòng quanh thế giới. Xin mời độc giả Việt Báo đi theo bước chân phiêu lãng của chị.
Zion National Park, Lâm viên Quốc gia, tọa lạc tại vùng Nam tiểu bang Utah, là một thắng cảnh nổi tiếng thế giới. Mời bạn đọc theo bước chân của nhà văn/nhà báo Trịnh Thanh Thủy đến thăm miền đất với thiên nhiên hùng vĩ này.
Mọi thứ xuất hiện trên thế gian này đều mang theo nó bản chất tương đối, hay nói theo khái niệm triết học là một thực thể luôn luôn có hai mặt: nên và hư, tốt và xấu, lợi và hại, v.v… Cái dễ thấy nhất là đồ nhựa. Lúc đầu ai cũng thấy đồ nhựa rất tiện lợi cho việc sử dụng hàng ngày. Nhưng ngày nay, đồ nhựa sau khi được dùng rồi bỏ đi thành rác lại gây ra tai họa cho môi trường, cho các sinh vật trên trái đất trong đó có loài người.
Riêng mùa Tạ Ơn năm nay, anh H. đặc biệt muốn hướng lòng biết ơn của mình đến với một biểu tượng của đức tin. Anh H. đã đến tạ ơn Đức Mẹ Long Beach.
Họa sĩ Duy Thanh vừa từ trần vào giờ 9:30 PM, đêm Chủ Nhật 24/11/2019 tại bệnh viện General Hospital San Francisco, tại thành phố San Francisco, California. Họa sĩ Duy Thanh sinh ngày 11 tháng 8 năm 1931 tại Thái Nguyên. Ông học vẽ năm 1952
Năm 2008, trong chuyến về Việt Nam ngày mùng 4 Tết, gia đình tôi tổ chức du lịch thăm Tứ Động Tâm tại Ấn Độ.
Chiều Thứ Sáu ngày 8 tháng 11/2019, mình hành hương chùa Kim Các Tự, ngôi chùa quen thuộc với người học văn ở Sài Gòn thời xa xưa.
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, bậc cao tăng thạc đức của Phật Giáo Việt Nam thời hiện đại, một trong những nhà lãnh đạo khai sáng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất vào đầu năm 1964, cũng là nhà phiên dịch và trước tác về Kinh, Luật, Luận và nhiều thể tài Phật Giáo, đã viên tịch tại Chùa Từ Đàm, thành phố Huế, vào lúc 9 giờ 45 phút tối ngày 8 tháng 11 năm 2019 (nhằm ngày 12 tháng 10 năm Kỷ Hợi), thọ thế 97 năm, theo Thông Báo của Hòa Thượng Thích Hải Ấn, Trú Trì Chùa Từ Đàm, Huế, cho biết vào sáng Thứ Sáu, ngày 8 tháng 11 năm 2019.
Hôm Thứ Sáu ngày 8 tháng 11/2019, mình hành hương ngôi chùa nhiều kỷ lục thế giới: Todai-ji tức Đông Đại Tự, xây từ thế kỷ thứ 8 theo lệnh Nhật Hoàng để cầu nguyện đất nước bình an.
Thứ Ba, ngày 5 tháng 11/2019, mình thăm chùa Senso-ji, thờ Đức Quan Thế Âm, tại Tokyo, Nhật Bản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.