Hôm nay,  

Bớt Ăn Thịt Là Tốt Nhứt

01/07/201500:00:00(Xem: 7833)

Người gõ có được cơ may làm việc trên 23 năm liền ngay trong tuyến đầu của ngành thịt tại Canada nên cũng nhìn thấy được phần nào mặt trái của nó …

Bs thú y mà khuyên người ta bớt ăn thịt, sao lạ vậy?
http://thuvienhoasen.org/a7627/ben-trong-lo-sat-sanh-canada-bac-si-thu-y-nguyen-thuong-chanh

- Mặt Trái Của Kỹ Nghệ Thực Phẩm
http://vietbao.com/a147406/mat-trai-cua-ky-nghe-thuc-pham

* * *

blank
Vật dưỡng nhơn, đó là câu tôi thường nghe Ông nội nói ngày xưa lúc tôi còn nhỏ.

Ngày nay, đối với các quốc gia đang phát triển, một bữa ăn có nhiều thịt là dấu hiệu của sự giàu sang và sự sung túc của gia đình. Giàu thì ăn thịt ăn cá, còn nghèo thì ăn rau ăn độn.

Trong thực tế từ vài thập niên qua, Tây phương đã thay đổi cái nhìn về thịt vì khoa học cho biết nó là đầu mối của nhiều vấn đề sức khỏe.

Thịt Đỏ hay Thịt Trắng

Đối với các nhà dinh dưỡng cũng như theo quy định của Cơ Quan Kiểm Tra Thực Phẩm Canada CFIA, thì thịt được phân chia ra làm hai loại chánh căn cứ trên màu sắc của chúng:

– Thịt đỏ (red meat): thịt bò, thịt heo, thịt dê, thịt trừu, thịt ngựa, và đồ lòng như tim, gan, thận là ba món được chánh thức được cho phép sử dụng tại Canada. Còn những món phá lấu như bao tử, phổi, tử cung heo, ngầu pín…là những ngoại lệ chỉ dành cho các sắc dân ethnies. Bò con nuôi bằng sữa, thịt có màu trắng hơi hồng hồng nhưng cũng được xếp vào nhóm thịt đỏ.

– Thịt trắng (white meat): thịt gà, thịt vịt, thịt gà Tây, thịt ngỗng, v.v…(vịt hay bay nên thịt cần chứa nhiều myoglobin để giữ oxy giúp các cơ hoạt động, vì vậy phần thịt ức hay magret có màu đỏ xậm hơn thịt gà và gà Tây).

Duck and goose are poultry and considered “white” meat. Because they are birds of flight, however, the breast meat is darker than chicken and turkey breast. This is because more oxygen is needed by muscles doing work, and the oxygen is delivered to those muscles by the red cells in the blood. One of the proteins in meat, myoglobin, holds the oxygen in the muscle, and gives the meat a darker color. USDA

Gần đây vì lý do sức khỏe, dân chúng có khuynh hướng chuộng thịt trắng hơn thịt đỏ nên kỹ nghệ chăn nuôi heo tại Canada cũng đã quảng cáo rầm rộ lên là thịt heo cũng là một loại thịt trắng.

Xét về mặt dinh dưỡng thì thịt nào cũng đều bổ cả, nhưng vấn đề then chốt là từ vài chục năm nay có dư luận cho rằng ăn nhiều thịt đỏ không tốt cho sức khỏe. Các nhà dinh dưỡng cũng như các giới y tế của các quốc gia u Mỹ đều thường hay khuyên mọi người nên bớt ăn thịt, nhất là thịt đỏ (nhiều calories, nhiều mỡ và nhiều cholesterol) để giảm thiểu nguy cơ xuất hiện của các bệnh về tim mạch cũng như của một vài loại cancer mà nhứt là ung thư ruột già (colon cancer).

“Ung thư ruột già là một trong những ung thư thường xuyên và nguy hiểm nhất tại Hoa Kỳ. Mỗi năm trên nước Mỹ hơn 130 ngàn người bị ung thư ruột già và trong số này gần phân nửa sẽ từ trần trong một thời gian ngắn sau khi bệnh được khám phá. Nếu so với các loại ung thư khác, ung thư ruột già đứng hàng thứ hai về số tử vong hàng năm, sau ung thư phổi. Người ta ước đoán khoảng 6% dân chúng sống tại Hoa Kỳ sẽ bị ung thư ruột già, và 6 triệu người đang sống trên nước Mỹ sẽ lìa trần vì bệnh này. Điều đáng ngại nhất là trong số những bệnh nhân này, tỷ số người Á châu càng ngày càng tăng nhanh”(ngưng trích Bs Bùi Xuân Dương –Ung thư ruột già.Hội Ung thư Việt Mỹ)

http://www.ungthu.org/cacbenhungthu/ut_ruot/ut_ruot.asp

Ung thư ruột già

People who eat a lot of red meat or processed meats may be raising their risk for colon cancer. Although this link has been shown before, a new study by American Cancer Society researchers helps explain the relationship.

Eating large amounts of red or processed meat over a long period of time can indeed raise colorectal cancer risk. But the risks from such a diet are smaller than those from obesity and lack of exercise, both for colon cancer and for overall health.

Trước tình thế bất lợi nầy, kỹ nghệ thịt bò và thịt heo đã không ngừng gia tăng quảng cáo khuyến mãi cũng như tung ra những cuộc vận động hành lang lobbies rất nặng kí để mong giành lại thị trường thịt đang có nguy cơ càng ngày càng xuống dốc.

blank
Ngộ độc thực phẩm do thịt bẩn

Ngộ độc thực phẩm từ thịt bẩn cũng là chuyện vẫn thường thấy xảy ra hằng ngày. Thịt có thể bị nhiễm phân tại nhà máy, nhiễm vi khuẩn Salmonella, E coli 0157:H7, Campylobacter jejuni, Listeria monocytogenes…

Vi khuẩn E.coli 0157:H7 là tác nhân của bệnh hamburger gây tiêu chảy có máu và suy thận vô cùng nguy hiểm đặc biệt là ở trẻ em.

Vấn đề hóa chất và tồn dư kháng sinh trong thịt

Trong chăn nuôi thuốc kháng sinh được dùng để trị bệnh và để phòng bệnh, nhưng công dụng chánh là để kích thích booster tăng trưởng (growth promoter) giúp cho con vật mau lớn, tăng trọng nhanh cũng như giúp cải thiện hệ số biến chuyển thức ăn (feed efficiency, feed conversion) hay số lượng thực phẩm cần thiết để tạo ra 1kg thịt.

Theo luật Kiểm Tra Thực Phẩm Canada, nhà chăn nuôi phải ngưng sử dụng thuốc kháng sinh một thời gian năm ba ngày trước khi gởi con vật đến lò sát sinh. Lý do là để thịt không có chứa các chất thuốc tồn dư. Thời gian ngưng thuốc (withdrawal period) dài hay ngắn tùy theo loại kháng sinh sử dụng.

Sự hiện diện của chất tồn dư kháng sinh (antibiotic residue) trong thịt có thể gây nguy hiểm cho người tiêu thụ. Chẳng hạn như Pénicilline có thể gây ra hiện tượng dị ứng.

Ăn thường xuyên thịt có kháng sinh có thể làm nẩy sinh ra tình trạng kháng kháng sinh (antibioresistance) đối với một vài loại vi khuẩn nào đó.

Thịt cũng có thể chứa các tồn dư của hóa chất, nông dược, thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ.

Thịt và hormones

Thịt bò cũng có thể chứa tồn dư hormones dùng để kích thích tăng trưởng ở các giống bò thịt.

Tại Canada, luật chỉ cho phép sử dụng hormones để cấy dưới da sau lỗ tai bò thịt (beef, bovin de boucherie) mà thôi. Đó là Estradiol, Progesterone, Testosterone, Zeranol và Acetate de Trombolone. Hormones giúp chúng tăng trưởng nhanh, cho thịt mềm và ít mỡ.

Có dư luận nghĩ rằng hormones làm xáo trộn thời gian tiền dậy thì (prepuberty) ở trẻ em, và cũng có thể gây ra một vài loại cancer nữa? Bởi lý do nầy mà Liên Hiệp u Châu có một dạo đã cấm vận việc nhập cảng thịt bò Mỹ và Canada.

Để bảo vệ sức khỏe người tiêu thụ, Cục Kiểm Tra Thực Phẩm Canada (CFIA) vẫn thường xuyên đề ra những chương trình thử nghiệm chất tồn dư tại các nhà máy thịt.

Đại tài phiệt Monsanto ngoài chuyện độc quyền trong lãnh vực hạt giống đậu nành OGM và thuốc diệt cỏ Roundup họ còn là nhà sản xuất và phân phối hormone rbGH giúp làm tăng năng xuất bò sữa.

Tại Hoa Kỳ, bên cạnh vấn đề thịt bò nhiễm hormone, thì sữa bò cũng chẳng khá gì hơn. Trên 30% bò sữa cũng thường được tiêm hormone tăng trưởng recombinant bovine Growth Hormone (rbGH) gọi tắt là bovine somatotropin (rbST). Đây là một loại hormone được chuyển đổi gène (genetically engineered hormone) do Monsanto sản xuất ra và phân phối dưới tên thương mại là Posalic.

Hormone nầy giúp tăng năng suất sữa lên rất khả quan.Mặc dù bị chống đối dữ dội khắp nơi nhưng rbST vẫn được cơ quan FDA Hoa kỳ chấp thuận cho phép sử dụng như thường từ năm 1993.

Rất nhiều công trình khảo cứu giá trị trên thế giới đã cảnh giác dư luận về mối nguy hại có thể có của hormone rbST đối với sức khỏe chúng ta nhất là đối với trẻ em.

Ngoài Hoa kỳ ra, các quốc gia sau đây cũng được thấy có áp dụng phương pháp tiêm hormone rbST cho bò sữa: Nam Phi, Đại Hàn, Costa Rica, Ai Cập, United Arab Emirates, Honduras, Do Thái, Kenya, Namibia, Peru, Nga, Slovakia, Zimbabwe…

Chỉ có Canada và các quốc gia thuộc khối Liên hiệp u châu thì tuyệt đối không cho phép sử dụng hormone rbST trong kỹ nghệ sữa của xứ họ.

Ăn nhiều thịt sẽ không tốt cho sức khỏe

Khảo cứu của National Institute of Health và American Association of Retired Persons.

Năm 1995, National Institute of Heath (NIH) phối hợp với American Association of Retired Persons đã theo dõi sức khỏe của 500 000 người hưu trí, tuổi từ 50 đến 71 tuổi. Có tất cả 71 000 đã qua đời trong thời gian 10 năm nghiên cứu.

Qua khảo cứu trên, những người ăn nhiều thịt đỏ có nguy cơ tử vong 30% cao hơn những người tiêu thụ ít thịt đỏ.

Đối với loại thịt biến chế (saucisse hong khói và bacon): những người tiêu thụ nhiều cho thấy có số tử vong 20 lần cao hơn những người ăn ít hai loại sản phẩm trên.

Nếu những người ăn nhiều thịt chịu thay đổi thói quen và giảm bớt việc tiêu thụ thịt lại thì vấn đề bệnh tim mạch sẽ giảm đi một cách rõ rệt ở 11% đàn ông và 21% ở đàn bà.

Có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy một sự tiêu thụ quá nhiều thịt đỏ là nguyên nhân đưa dến cancer ruột colorectal.

Ngoài ra sự lạm dụng thịt đỏ và thịt biến chế cũng bị nghi ngờ làm sản sinh ra các loại cancer: phổi, thực quản,tụy tạng, tiền liệt tuyến, và cancer vú ở phụ nữ trong thời gian tiền mãn kinh.

Mỡ động vật (tổng số chất béo gras total, mỡ bão hòa saturated fat, hay chất béo không bão hòa đơn thể monounsaturated fat) cũng là đầu mối gây cancer tụy tạng. Đây là một loại cancer hiếm thấy, thường đưa đến tử vong. Tuy nhiên, cũng có lối 5% bệnh nhân có thể sống trên 5 năm.

Trong khảo cứu nói trên, những người tiêu thụ quá nhiều mỡ dầu dễ có nguy cơ bị cancer tụy tạng (đàn ông 53% và đàn bà 23%) nhiều hơn so với nhóm người ăn ít mỡ dầu.

Không thấy có mối liên hệ nào được đề cập giữa cancer tụy tạng và chất béo không bão hòa đa thể (polyinsaturés) gốc thực vật.

Ngoài ra thuốc lá, tình trạng béo phì, và bệnh tiểu đường đều được xem là những yếu tố nguy cơ của cancer tụy tạng.

Khảo cứu của National Institute of Health và American Association of Retired Persons.

Năm 1995, National Institute of Heath (NIH) phối hợp với American Association of Retired Persons đã theo dõi sức khỏe của 500 000 người hưu trí, tuổi từ 50 đến 71 tuổi. Có tất cả 71 000 đã qua đời trong thời gian 10 năm nghiên cứu.

Qua khảo cứu trên, những người ăn nhiều thịt đỏ có nguy cơ tử vong 30% cao hơn những người tiêu thụ ít thịt đỏ.(heo, bò, dê, cừu)

Đối với loại thịt biến chế (saucisse hong khói và bacon): những người tiêu thụ nhiều cho thấy có số tử vong 20 lần cao hơn những người ăn ít hai loại sản phẩm trên.

Nếu những người ăn nhiều thịt chịu thay đổi thói quen và giảm bớt việc tiêu thụ thịt lại thì vấn đề bệnh tim mạch sẽ giảm đi một cách rõ rệt ở 11% đàn ông và 21% ở đàn bà.

Có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy một sự tiêu thụ quá nhiều thịt đỏ là nguyên nhân đưa dến cancer ruột colorectal.

Ngoài ra sự lạm dụng thịt đỏ và thịt biến chế cũng bị nghi ngờ làm sản sinh ra các loại cancer: phổi, thực quản,tụy tạng, tiền liệt tuyến, và cancer vú ở phụ nữ trong thời gian tiền mãn kinh.

Mỡ động vật (tổng số chất béo gras total, mỡ bão hòa saturated fat, hay chất béo không bão hòa đơn thể monounsaturated fat) cũng là đầu mối gây cancer tụy tạng. Đây là một loại cancer hiếm thấy, thường đưa đến tử vong. Tuy nhiên, cũng có lối 5% bệnh nhân có thể sống trên 5 năm.

Trong khảo cứu nói trên, những người tiêu thụ quá nhiều mỡ dầu dễ có nguy cơ bị cancer tụy tạng (đàn ông 53% và đàn bà 23%) nhiều hơn so với nhóm người ăn ít mỡ dầu.

Không thấy có mối liên hệ nào được đề cập giữa cancer tụy tạng và chất béo không bão hòa đa thể (polyinsaturés) gốc thực vật.

Ngoài ra thuốc lá, tình trạng béo phì, và bệnh tiểu đường đều được xem là những yếu tố nguy cơ của cancer tụy tạng.

blank
Vấn đề chất N-nitroso

Nitrates and nitrites are used widely in the meat industry to cure. They are usually mixed with meat binders and cure ingredients and are added to dry sausages, semi-dry sausages, preserved meat and preserved meat by-products such as ham and salami. They can be added in the form of sodium and potassium salts (ex: sodium nitrate, sodium nitrite, potassium nitrate and potassium nitrite).

Ts dinh dưỡng học Marie Josée Leblanc, Université de Montréal, cho biết cơ chế hình thành ung thư là sự tạo ra trong ruột chất N-nitroso.

Cùng với một số chất khác N-nitroso thúc đẩy ra sự xuất hiện cancer. Một trong những chất khác là chất sắt trong máu dưới dạng heme. Đây là chất tạo ra màu đỏ của thịt.

Sắt heme rất dễ hấp thụ trong cơ thể và giúp vào việc tạo ra chất N-nitroso, ngược với chất sắt gốc thực vật gọi là non heme (fer non hémique).

Ngoài ra cũng phải kể đến sự hiện diện của nitrite, một chất phụ gia được trộn thêm trong thịt biến chế, hoặc các chất nitrate có trong nước, hay trong một vài loại rau quả. Tất cả đều cần thiết để tạo ra N-nitroso.

Một số vi khuẩn nằm sẵn trong ruột cũng dự phần vào trong việc sản xuất ra N-nitroso.

Cách nấu nướng cũng là một nguyên nhân nữa.

Một cơ chế khác là cách nấu nướng cũng có thể là nguyên nhân gây cancer.

Nhiệt độ càng cao, nấu càng lâu và thịt cành chín thì càng tạo ra nhiều chất gây cancer.

Có hai loại phân tử được tạo ra lúc nấu nướng: Chất amines hétérocycliques AHC và chất Hydrocarbures aromatiques polycycliques HAP.

AHC được tạo ra lúc thịt (thịt đỏ cũng như thịt trắng) phải chịu đựng một nhiệt độ quá cao.

HAP,xuất hiện lúc nước thịt hay mỡ chảy ra, bóc khói và bám vào thịt. Đây là trường hợp thường thấy lúc nướng thịt trên lữa hoặc chiên trong chảo.

Làm sao bây giờ?

Các nhà dinh dưỡng cũng như Canadian Cancer Society khuyên chúng ta nếu có ăn thịt đỏ thì:

*nhớ ăn kèm theo nhiều rau quả đặc biệt là broccoli, cải bắp cabbage, các loại hạt, trái cây vì chúng rất giàu chất chống oxyt hóa antioxidant và chất chống cancer.

*lựa những thịt nhiều nạc, lóc bỏ bớt mỡ trước khi nướng.

*Nướng những phần thịt nhỏ nhằm giảm thời gian trên lửa.

*Ướp thịt trong môi trường acide, chẳng hạn như với chanh, với giấm…

*Bao thịt lại trong giấy nhôm trước khi nướng.

*Nên nấu, nướng hoặc luộc sơ sơ các miếng thịt trong trong nồi nước trước khi đem nướng thật sự trên lò barbecue.

*Giảm bớt độ nóng lò barbecue và thường xuyên trở bề miếng thịt lúc nướng.

*Ưu tiên cách nấu, nướng với lửa nhỏ.

*Trong một tuần, giới hạn tối đa ba miếng thịt 85gr (3 ounces) cho một người. Mỗi miếng không lớn hơn kích thước một lá bài.

*Nên sử dụng thịt biến chế không có bảo quản bằng nitrite.

*Chót hết, nên dùng thường xuyên thịt gà, cá, rau cải, các loại đậu, trứng gà, tàu hũ…

C - réactive Protein CRP: một nguy cơ cho bệnh tim mạch

CRP do gan sản xuất và thải vào máu. CRP xuất hiện nhiều trong các tình trạng viêm sưng inflammation.Một mối nguy cơ cho bệnh tim mạch.

High CRP levels are considered by some to be a risk factor for heart disease, but it is not clear whether CRP is only a sign of cardiovascular disease or if it actually an underlying cause of heart problems. The American Heart Association has developed the following in relation to cardiovascular health and CRP levels:

You are at low risk of developing cardiovascular disease if your hs-CRP level is lower than 1.0mg/L

You are at average risk of developing cardiovascular disease if your levels are between 1.0 and 3.0 mg/L

You are at high risk for cardiovascular disease if your hs-CRP level is higher than 3.0 mg/L

Ts dinh dưỡng học Benoit Lamarche, univ. Laval Canada, nghĩ rằng protein động vật có khuynh hướng làm gia tăng hiện tượng viêm sưng so với protein gốc thực vật.

Nhận xét trên được rút ra tử khảo cứu dinh dưỡng so sánh giữa chế độ ăn uống của dân Quebecois (nhiều mỡ dầu, chất béo chẳng hạn như các món, poutine, pâté chinois, sous marins, dessert bánh ngọt, rượu…) với chế độ dinh dưỡng Địa trung Hải (régime méditerranéen) nhiều cá, rau đậu, hạt vẻ, hạt thô, và một ly rượu chát đỏ (ly nho nhỏ) mỗi ngày sau buổi ăn chiều. Uống 5 ngày/tuần.

Sự kiện ăn uống theo chế độ dinh dưỡng Địa Trung Hải, có giảm hoặc không có giảm cân, giúp kéo hàm lượng Protein C xuống 22%. Protein C là chỉ điểm marqueur của viêm sưng.

Biết rằng tình trạng viêm sưng mãn tính thường gặp ở những ngưởi dư cân, mập bụng obésité abdominale, là một nhân tố nguy cơ cho sự xuất hiện ra các bệnh tim mạch.

Theo Ts Benoit Lamarche, chế độ dinh dưỡng Địa Trung Hải có thể làm giảm một cách hiệu quả tình trạng viêm sưng.

Kết luận: “bớt ăn thịt” là tốt nhứt

Ăn thịt hay không ăn thịt ? Một câu hỏi rất khó trả lời.

Câu trả lời có khác nhau hay không là tùy theo cái nhìn của mỗi người.

Nói chung, thì ngày nay, rất nhiều nhà khoa học đều khuyên chúng ta nên giảm bớt việc ăn thịt đỏ (thịt bò, thịt heo, thịt dê cừu, đồ lòng, gan, tim, thận…).

Nên ăn thịt nạc, hoặc thay thế bằng thịt trắng như thịt gà đã bỏ da bỏ mỡ, và cũng nên ăn cá 2-3 lần trong tuần.

Nên dùng thức ăn đa dạng, ít mỡ dầu, ít muối, ít đường, nhiều chất xơ, nhiều rau quả tươi 10 portions, servings tức 10 phần chuẩn trong một ngày (1phần tương đương ½ tách rau tươi hoặc 1 trái pomme trung bình), nhiều đậu và hạt.

Bớt rượu, bớt cà phê, bỏ thuốc lá và phải nhớ vận động tập thể dục đều đặn và thường xuyên./.

Đọc Thêm:

Nguyễn Thượng Chánh

- Thịt, Bạn Hay Thù
http://vietbao.com/a187870/thit-ban-hay-thu

- Có nên ăn chay hay không?
http://vietbao.com/a235119/co-nen-an-chay-hay-khong

Dầu Olive Và Chế Độ Dinh Dưỡng Địa Trung Hải
http://vietbao.com/a222564/dau-olive-va-che-do-dinh-duong-dia-trung-hai

- Eating Meat May Raise Colon Cancer Risk
http://www.webmd.com/colorectal-cancer/news/20110523/eating-meat-may-raise-colon-cancer-risk

Ý kiến bạn đọc
01/07/201518:34:06
Khách
Ai ăn nhiều quá hay bị bịnh thì cần phải bớt thịt , chứ cón tôi thì cũng thấy người ta bớt thì tôi cũng le te bỏ thịt bò 1 năm . Rồi thử máu thì không đủ hồng cầu để đếm nên phải ăn tiếp , không dám kiêng cữ nữa.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng 4 năm 2024, một phụ nữ ở Sacramento, California, Mỹ bị ngộ độc chì nghiêm trọng và tử vong sau khi sử dụng thuốc mỡ trị trĩ của Việt Nam có tên “Cao Bôi Trĩ Cây Thầu Dầu”. Thử nghiệm thuốc mỡ bôi trĩ này cho thấy nó chứa 4% chì (cứ 100 gram thuốc thì có 4 gram chì), đây là lượng rất nguy hiểm. Chì là một chất kim loại nặng độc hại cho cơ thể. Tiếp xúc với bất kỳ lượng chì nào cũng có thể gây hại cho sức khỏe.
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.