Giữa cơn địa chấn kinh tế được tạo ra bởi lệnh áp thuế lên tới 46% đối với hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam vào Hoa Kỳ, nhiều tiếng nói trong xã hội đã nhanh chóng gán cho cú đánh này một sắc thái triết lý – như thể đây không đơn thuần là một động thái thương mại, mà là một lời cảnh tỉnh cao cả, một bước ngoặt lịch sử, một tiếng chuông thức tỉnh cho mô hình phát triển Việt Nam. Trong cơn kích động của hiện thực, không ít nhận định cho rằng đây là cơ hội để thay đổi căn bản thể chế, mô hình kinh tế, thậm chí cả cấu trúc xã hội – như thể chính sách thuế của một siêu cường lại mang trong nó khát vọng cải cách cho một quốc gia nhỏ bé bên bờ Thái Bình Dương. Nhưng sự thật, như mọi khi, không vận hành theo những lý tưởng ngây thơ hay cảm xúc cao trào. Cú đánh thuế này, nếu được nhìn dưới kính hiển vi của kinh tế học, địa chính trị và logic thương mại quốc tế, thực chất là một diễn biến đã được báo hiệu từ lâu – và không mang bất kỳ thông điệp nhân đạo, cải cách hay thức tỉnh nào ngoại trừ chính ý chí bảo hộ và trật tự lợi ích của phía Mỹ.
Không có thông cáo nào từ Nhà Trắng, không có diễn văn nào từ Đại diện Thương mại Hoa Kỳ nhắc đến cải cách thể chế, quyền con người hay chủ quyền kinh tế của Việt Nam như điều kiện để dỡ bỏ mức thuế. Không có một dòng nào trong các văn kiện thương mại Hoa Kỳ ám chỉ mong muốn Việt Nam chuyển mình sang một mô hình dân chủ hay minh bạch hóa chính sách công. Điều duy nhất được nhấn mạnh trong các lập luận của phía Mỹ, từ thời Trump đến nay, là: thặng dư thương mại của Việt Nam quá lớn, nghi vấn gian lận xuất xứ tăng cao, chuỗi cung ứng bị nghi chuyển tải hàng hóa Trung Quốc sang Việt Nam để né thuế, và tỷ giá hối đoái bị cáo buộc điều chỉnh thiếu minh bạch nhằm hỗ trợ xuất khẩu. Tất cả những yếu tố ấy đều xoay quanh lợi ích kinh tế và công ăn việc làm cho người Mỹ – chứ không phải là thiện chí cải tổ các nền kinh tế đối tác. Bất kỳ lập luận nào gán cho cú đánh này một vai trò giáo hóa hay thúc đẩy dân chủ đều là ngộ nhận – hoặc tệ hơn, là sự lãng mạn hóa chủ nghĩa thực dụng trần trụi của quyền lực.
Ở một tầng nông hơn, một số nhận định khẳng định rằng mô hình chuỗi cung ứng toàn cầu dựa vào nhân công giá rẻ, lao động lắp ráp và cơ cấu thuê ngoài đang sụp đổ, và rằng Việt Nam – như một mắt xích của hệ thống ấy – đang bị loại bỏ. Nhưng đó là một cái nhìn đầy duy ý chí. Trong thực tế, Việt Nam hiện vẫn giữ vị trí trung tâm trong nhiều chuỗi giá trị toàn cầu: từ điện tử, công nghệ thông tin, dệt may đến sản xuất phần cứng. Các tập đoàn như Samsung, Intel, LG, Foxconn, Nike, Adidas vẫn đang tiếp tục mở rộng quy mô tại Việt Nam. Làn sóng dịch chuyển đầu tư khỏi Trung Quốc không đẩy chuỗi cung ứng vào chỗ chết – mà tái định vị nó. Và Việt Nam, thay vì bị đẩy ra rìa, lại là nơi được chọn làm điểm đến. Không có bằng chứng nào cho thấy Việt Nam bị loại khỏi tiến trình kinh tế toàn cầu. Việc áp thuế là chiến thuật đàm phán, là công cụ gây áp lực để Mỹ tái định hình cán cân thương mại theo hướng có lợi hơn cho họ – chứ không phải là bản án tử hình cho mô hình gia công giá rẻ.
Cũng từ cái nhìn đầy cảm tính ấy, người ta nhanh chóng gán cho quyền con người, cải cách chính trị và phát triển kinh tế một mối liên hệ nhân quả trực tiếp. Tư tưởng cho rằng không thể tăng trưởng nếu không có tiếng nói phản biện, nếu không có công đoàn độc lập, nếu không có thể chế dân chủ là một tư tưởng đẹp – nhưng nguy hiểm nếu bị tuyệt đối hóa. Trung Quốc đã tăng trưởng thần tốc trong hơn 30 năm mà không có cải cách dân chủ theo nghĩa phương Tây. Singapore trở thành quốc gia giàu có với một thể chế bán tự do. Các tiểu vương quốc Ả Rập đạt mức GDP đầu người cao ngất mà không cần hội nhập chính trị. Nói như vậy không phải để cổ súy cho mô hình phi dân chủ, mà để xác lập một sự thật cơ bản: phát triển kinh tế không nhất thiết phải đi cùng với cải cách chính trị ngay lập tức, và càng không thể gán các chính sách thương mại mang tính vị kỷ của một quốc gia thành “lời kêu gọi cải cách thể chế” cho quốc gia khác. Thương mại không phải là cánh tay nối dài của chủ nghĩa lý tưởng.
Bên cạnh đó, một trong những luận điểm thường được lặp đi lặp lại là yêu cầu khẩn thiết phải thiết lập chủ quyền kinh tế – như thể đó là con đường tất yếu để thoát khỏi các cú sốc bên ngoài. Nhưng chủ quyền kinh tế không phải là một khẩu hiệu, càng không thể có được chỉ bằng ý chí. Một quốc gia chỉ có thể đạt được chủ quyền kinh tế khi nó kiểm soát được ba yếu tố then chốt: năng lực sản xuất nội địa với năng suất và công nghệ cao; mạng lưới doanh nghiệp bản địa đủ sức cạnh tranh quốc tế; và một hệ thống chính sách công nghiệp có chiến lược, ổn định, và đồng bộ với hệ sinh thái giáo dục – nghiên cứu – tài chính. Trong khi đó, Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc phần lớn vào khu vực đầu tư nước ngoài, chiếm hơn 70% kim ngạch xuất khẩu và hơn 50% giá trị sản xuất công nghiệp. Nếu không có chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ bản địa, không có hạ tầng công nghệ đủ mạnh để nâng chuỗi giá trị từ “lắp ráp” sang “sáng tạo,” thì mọi lời kêu gọi chủ quyền kinh tế sẽ vẫn mãi nằm trên giấy.
Bên cạnh đó, một trong những luận điểm thường được lặp đi lặp lại là yêu cầu khẩn thiết phải thiết lập chủ quyền kinh tế – như thể đó là con đường tất yếu để thoát khỏi các cú sốc bên ngoài. Nhưng chủ quyền kinh tế không phải là một khẩu hiệu, càng không thể có được chỉ bằng ý chí. Một quốc gia chỉ có thể đạt được chủ quyền kinh tế khi nó kiểm soát được ba yếu tố then chốt: năng lực sản xuất nội địa với năng suất và công nghệ cao; mạng lưới doanh nghiệp bản địa đủ sức cạnh tranh quốc tế; và một hệ thống chính sách công nghiệp có chiến lược, ổn định, và đồng bộ với hệ sinh thái giáo dục – nghiên cứu – tài chính. Trong khi đó, Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc phần lớn vào khu vực đầu tư nước ngoài, chiếm hơn 70% kim ngạch xuất khẩu và hơn 50% giá trị sản xuất công nghiệp. Nếu không có chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ bản địa, không có hạ tầng công nghệ đủ mạnh để nâng chuỗi giá trị từ “lắp ráp” sang “sáng tạo,” thì mọi lời kêu gọi chủ quyền kinh tế sẽ vẫn mãi nằm trên giấy.
Một lỗi nghiêm trọng khác nằm ở việc lý tưởng hóa chủ nghĩa Trump như một hình mẫu kiến tạo trật tự thương mại công bằng. Thực tế, các chính sách thuế quan mà chính quyền Mỹ theo đuổi từ nhiệm kỳ 2016 đến nay không hề hướng tới việc xây dựng một hệ thống thương mại minh bạch và bền vững hơn, mà đơn thuần chỉ là phản ứng mang tính dân túy trước áp lực thất nghiệp, nhập cư và bất ổn tầng lớp trung lưu ở Mỹ. Hệ quả là giá cả tiêu dùng tại Mỹ tăng cao do chi phí nhập khẩu tăng, các ngành sản xuất nội địa vẫn không thể hồi sinh do chi phí lao động Mỹ quá đắt đỏ, và niềm tin vào vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ bị xói mòn do cách hành xử đơn phương, gây áp lực lên cả các đồng minh như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc. Tất cả những điều ấy phủ nhận hoàn toàn luận điệu rằng chính sách thuế quan hiện tại là để tạo ra một “trật tự mới” tốt đẹp hơn. Trái lại, đó là một nỗ lực tái lập ưu thế Mỹ bằng mọi giá – kể cả bằng việc gây bất ổn cho phần còn lại của thế giới.
Nếu có điều gì cần tỉnh thức, thì không phải là sự thức tỉnh từ bên ngoài, mà là sự tự phản tỉnh từ bên trong. Việt Nam cần cải cách, điều đó là không thể chối cãi. Nhưng cải cách phải đến từ nhận thức chủ động chứ không phải do sức ép bên ngoài. Cải cách để xây dựng một nền kinh tế có giá trị gia tăng cao, để doanh nghiệp bản địa vươn lên, để công nghệ không chỉ là nhập khẩu mà còn là phát minh. Cải cách để người lao động được bảo vệ, để chính sách được thiết kế vì dân chứ không vì nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng điều đó không thể đạt được nếu ta tiếp tục nhầm lẫn giữa hiện tượng và bản chất, giữa hành vi của đối phương và mục tiêu của chính mình.
Cú đánh thuế 46% có thể là một cú sốc, nhưng không nên được coi là một “lời mời cải cách.” Đó là một diễn biến tất yếu của một thế giới đang bước vào giai đoạn cạnh tranh khốc liệt giữa các trung tâm quyền lực – và không ai trong cuộc chơi ấy hành động vì lòng tốt. Trong một sân khấu nơi lợi ích quốc gia là kim chỉ nam, điều Việt Nam cần là tăng nội lực, củng cố năng lực đàm phán, và tái thiết cơ cấu kinh tế trên cơ sở khoa học và thực tế – không phải trên những cảm hứng nhất thời hay ảo tưởng chính trị hóa thương mại. Không có ai ngoài chính người Việt Nam sẽ giúp Việt Nam thoát khỏi sự lệ thuộc. Và không có sức ép bên ngoài nào nên được nhầm lẫn là sự khai sáng.
Nguyên Việt
Yuma 4.4.2025
Gửi ý kiến của bạn