* Tổng Thống Thiệu: Tôi muốn hỏi Tiến sĩ Kissinger, nếu chúng tôi không thể ký thỏa hiệp này trước cuộc bầu cử, thời liệu Hoa Kỳ có ...
* Tướng Westmoreland: Tổng thống Thiệu không thể chấp nhận một thỏa hiệp như vậy và có thể sẽ bác bỏ nó.
* Thư viện BNG-FRUS: Điều kiện của TT Thiệu: đảm bảo tuyệt đối về vùng phi quân sự, phải rút toàn bộ lực lượng của Bắc Việt Nam...
* TS Kissinger: Thiệu không nên ảo tưởng thay đổi cơ bản trong hiệp định... chúng tôi sẽ tiến hành mà không có ông ta
* Tài liệu Quốc Hội <02.5.1975>: TS Nguyễn Tiến Hưng đã công khai thư của TT Nixon gửi TT Thiệu tại Washington, nhưng ông Thiệu không hề hay biết, (ông Hưng làm) theo lương tâm mách bảo.
Theo bản văn của Tiểu ban Phân tách Quyền lực thuộc Ủy ban Tư pháp Thượng viện, vào ngày 30 tháng 4 của năm 1975, nghĩa là 46 năm trước, tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng công bố cho báo chí Mỹ biết các lá thư tổng thống Nixon đã gửi thư cho tổng thống Nguyễn văn Thiệu vào các năm 1972 và 1973 hứa hẹn nhiều điều. Nào là cam kết rằng Mỹ sẽ "có hành động trả đũa nhanh chóng và nghiêm khắc", nào là Mỹ sẽ "đáp trả bằng toàn bộ lực lượng nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định ngừng bắn
Phía quốc hội đòi hỏi tra ra " bản sao của các bức thư ngày 14 tháng 11 năm 1972 và ngày 5 tháng 1, Ngày 17 và 20 năm 1973 do Tổng thống Richard M. Nixon gửi cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trong đó Tổng thống Nixon đưa ra các cam kết liên quan đến việc Mỹ sẽ trợ giúp miền Nam Việt Nam trong thời kỳ hậu hòa đàm- in which President Nixon makes commitments regarding American assistance to South Vietnam in the post-settlement period; bản sao các bức thư ngày 11 tháng 11 và ngày 20 tháng 12 năm 1972 của Tổng thống Thiệu gửi Tổng thống Nixon về sự hứa hẹn hỗ trợ của Hoa Kỳ đối với miền Nam Việt Nam trong giai đoạn hậu hòa đàm-regarding American assistance to South Vietnam in the post-settlement period.".
Vụ việc phổ biến các thư của TT Nixon diễn ra ngày 30.4.1975, và Thượng viện đòi các thư trên vào thượng tuần tháng 5 năm 1975, người viết sẽ trình bày tiếp tại phần cuối của loạt bài này, nhất là về lý do việc công bố cho báo chí Mỹ các lá thư cam kết của tổng thống Nixon, theo tài liệu của quốc hội có ghi dòng chữ: " Ông Hưng cho biết ông đã công khai các bức thư nhưng ông Thiệu không hề hay biết, (ông Hưng làm) theo lương tâm mách bảo" - Mr. Hung said he was making the letters public without Mr. Thieu's knowledge “at the dictates of my conscience.” .
Như đã viết việc quốc hội mở cuộc điều trần sẽ trình bày sau, còn bài viết này người viết mời bạn đọc ôn lại sự việc trước ngày 30.4.1975 tại Paris, tại Sài gòn, tại Washington và tại Nữu Ước về cuộc hòa đàm Ba Lê 1972 - 1973. Tại Nữu Ước phía Mỹ trao đổi quan điểm với hai đại sứ Trung Cộng và Liên Xô về cuộc hòa đàm. Có nghĩa là cuộc hòa đàm Paris hồi tháng 10.1972 diễn tiến ra sao, để rồi báo chí Sài gòn thời đó đã ví von gọi đó là "hiệp định da beo", và rằng " Ông Thiệu bác bỏ thỏa hiệp" để rồi bị ông Nixon đe dọa chặt đầu nếu ông Thiệu không ký kết thỏa hiệp.< Việt Báo ngày 21.2.2021, đề tài: Biến cố 30.4.75 theo tài liệu của CIA, BNG và phơi bày tham vọng của Tướng Đôn >. Phần tóm lược sau người viết dựa vào tài liệu của Ủy Ban Tư Pháp Thượng Viện, của Bộ Ngoại Giao, của thư viện CIA online và bài viết trên trang web QGHC.
Theo tài liệu của Bộ Ngoại Giao vào cuối tháng 10.1972, TS Kissinger hô hoán lên rằng hòa đàm Ba-lê đã đạt được cả 3 điểm, nhưng phía tổng thống Thiệu thì nói KHÔNG với cả 3... Sự thể đã xảy đến vụ đối đầu giữa Mỹ và VNCH hay là sự đối đầu giữa tổng thống Thiệu và tổng thống Nixon hồi tháng 10 năm 1972.
- Ngày 09.10.1972 - theo bản văn của CIA - Sự hiện diện của Tướng Haig với Kissinger tại
- Ngày 11-12.10.1972 - Tóm lược theo bản văn của Bộ Ngoại Giao về cuộc họp hai bên giữa TS Kissinger và phía CSBV là Lê Đức Thọ, họp tại Paris từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 10 năm 1972 (tài liệu tham chiếu số FRUS #1 - FRUS #3 - FRUS #5 - FRUS #6 tại NGUỒN phía dưới). Phía CSBV không muốn kéo dài cuộc thảo luận và yêu cầu hiệp định phải được ký kết vào cuối tháng 10.1972 - Trong khi đó vào ngày 7.11.1972 có cuộc bầu cử tổng thống tại Mỹ và TT Nixon tái ứng cử - không biết đó có phải là lý do phía CSBV mượn cơ hội này ép phía Mỹ phải chiều theo ý của CSBV hay không.
Vào ngày 12 tháng 10.1972, hai bên đã đồng ý về bản dự thảo...
" - Lê Đức Thọ: Bây giờ về phần thỏa thuận chúng tôi đã đồng ý, chúng tôi sẽ tiến hành như thế nào?
- Tiến sĩ Kissinger: ... Tôi muốn nói, để tránh nhầm lẫn, chúng tôi sẽ đánh máy lại từ tiếng Anh của chúng tôi và bạn có một bản sao của bản văn. Chúng tôi sẽ nỗ lực tận tâm nhất để đảm bảo rằng mọi thứ chúng tôi đã đồng ý đều được hợp nhất.
- Lê Đức Thọ : Có thể nói các cuộc đàm phán này là cuộc đàm phán dài nhất giữa các quốc gia trên thế giới. Nhưng chúng ta đã rất nỗ lực, và bạn cũng vậy, ông đã rất nỗ lực ... Nhưng thông qua nỗ lực của chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ đạt được mục tiêu hòa bình-But through our effort, no doubt we will reach our objective of peace." {FRUS #6}
Sau đó phía Mỹ đã tiết lộ lịch trình của TS Kissinger phải đến Sài Gòn gặp phía VNCH để trao đổi với TT Thiệu về nội dung bản dự thảo mà hai bên Mỹ-CSVN đã thỏa thuận, và phía Mỹ chiều theo ý của CSBV là sẽ công bố và ký kết hiệp định theo lịch trình phía Mỹ chia sẻ với phía CSVN như sau mặc dầu chưa có ý kiến từ phía VNCH.
" TS Kissinger: Bây giờ tôi có hai phương án khác nhau. Nếu tôi không trở lại đây, thì sáng thứ Hai tôi sẽ rời Washington để đến Sài Gòn vào tối ngày 17. Sau đó, tôi phải mất ba ngày ở Sài Gòn, ở đó vào các ngày 18, 19 và 20, sau đó tôi sẽ ra Hà Nội vào sáng ngày 21, và rời đi vào sáng ngày 23. Chúng tôi sẽ công bố thỏa thuận vào sáng ngày 26, giờ của ông (giờ Hà Nội) . Và chúng tôi sẽ ký hiệp định vào ngày 29 hoặc 30 tùy thuộc vào lịch trình. Có thể là ngày 30, bởi vì ngày 29 là Chủ nhật. Vì vậy, chúng ta hãy nói rằng ngày 30 sẽ là ngày ký kết . Thông báo sẽ được công bố vào ngày 26.- So let us say the 30th would be the signature. The announcement would be on the 26th.
Phương án còn lại là chúng ta gặp nhau ở đây vào ngày 16 hoặc ngày 17. Tôi thực sự không thể rời Washington trước ngày 16. Sau đó tôi sẽ đi từ đây đến Sài Gòn. Như vậy tôi sẽ đến Sài Gòn vào tối ngày 18, sau đó tôi sẽ có mặt ở Sài Gòn vào ngày 19, 20 và 21. Tại Hà Nội ngày 22 và 23. Tôi sẽ trở lại Mỹ vào ngày 24. Thông báo sẽ là sáng ngày 27, giờ của ông. Mọi thứ diễn ra một ngày sau theo cách đó. Thông báo sẽ là sáng ngày 27, giờ của ông và việc ký kết vẫn có thể vào ngày 30 hoặc 31 -Announcement would be the morning of the 27th, your time and the signing could still be on the 30th or 31st." {FRUS #6}
- Ngày 12.10.1972 -Lúc 7 giờ 5 phút tối hôm đó, ngày 12 tháng 10, Kissinger và Tướng Alexander M. Haig, Phó Phụ Tá của Tổng thống về các vấn đề an ninh quốc gia, bước vào văn phòng của Tổng thống trong Tòa nhà Văn phòng Điều hành . Sau đó Kissinger bắt đầu báo cáo "..."
- Kissinger: “Chà, ông đã đạt 3 trên 3, thưa Tổng thống. Nó đang hướng tới đích. "
- Nixon: “Ông đã đạt được thỏa hiệp? Ông đang giỡn hả? " (“You got an agreement? Are you kidding?”)
- Kissinger: "Không, tôi không nói đùa."
- Nixon: “Ông có hài lòng về nó không? đạt được 3 trên 3? "
- Kissinger: "Mặc dù đã xong nhưng chúng ta phải ..." {FRUS #9}
* Tiến sĩ Kissinger nói CÓ ...
Theo bài viết của tác giả Trọng Đạt liên quan đến hòa đàm Paris tháng 10.1972, trên trang mạng Quốc Gia Hành Chánh:
- Ngày 12.10.1972 - ... " Tối 12/10 Kissinger và phụ tá Haig về Hoa Thịnh Đốn, ông ta nói với Nixon: “Tổng thống đã làm được 3 trên 3, Well, you’ve got 3 for 3”
Ý nói đã giải quyết được ba vấn đề ngoại giao lớn: Hòa với Nga, bang giao với Trung Cộng và hòa bình cho VN. Kissinger nói với TT về ngày ký kết đã gần kề..."
- Ngày 18.10.1972 - "...Kissinger rời Paris tới Sài Gòn buổi tối 18/10, ông hy vọng chỉ ở lại Sài gòn hai ngày là xong... Kissinger đưa cho TT Thiệu bản sao sơ thảo Hiệp định và giải thích những điểm chính nhấn mạnh những điểm chính để VNCH an tâm:
1- Ông Thiệu vẫn làm TT, có quyền phủ quyết trong Hội đồng hòa giải dân tộc;
2- BV phải từ bỏ xâm lăng trong tương lai
3- Mỹ còn căn cứ tại Thái Lan và Hạm đội Bẩy tại Thái bình dương để bảo vệ miền nam VN
4- Viện trợ kinh tế quân sự tiếp tục
5- Mỹ có thể thỏa hiệp với Nga-Trung Cộng hạn chế viện trợ cho BV về quân sự.. Sau cùng thỏa ước sẽ cho Mỹ rút quân, lấy tù binh về nước, tiếp tục yểm trợ Sài gòn. Henry cho đó là một thỏa ước rất lợi cho ta nhưng ông dấu không cho TT Thiệu biết sẽ đi Hà Nội và sẽ ký ở Paris và không cho biết những vấn đề chưa giải quyết xong.
Sau khi nghe, ông Thiệu xin một bản sao, buổi họp kết quả xấu. Bí thư Hoàng Đức Nhã đòi bản tiếng Việt, Kissinger đưa bản Việt ngữ do BV gửi ông. Nhã thấy Hiệp định như đầu hàng, VNCH có cảm tưởng như bị phản bội. Bản văn nói đến ba nước Việt, Miên Lào, Việt Nam coi như một nước, Nhã nghi ngờ Hội đồng hòa giải dân tộc là chính phủ Liên hiệp trá hình, ông ta chú ý sự đóng quân của BV không rõ ràng, Khu phi quân sự (DMZ) bị xóa, ông Nhã ghi 64 điểm cần chi tiết hóa trước khi thành Hiệp định. Ông Thiệu tiếp Tiến sĩ Kissinger bề ngoài vui vẻ nhưng trong lòng tức giận vì ông ta không thật lòng, dối gạt Sài Gòn.
Theo tác giả Walter Isaacson (Kissinger A Biography trang 452), Kissinger không biết một điều là TT Thiệu đã có một tài liệu 10 trang do tình báo VNCH lấy được từ một hầm chỉ huy của một chính ủy tại Quảng Tín và đã được mang về dinh Độc lập ngay nửa đêm Henry tới VN, tức ngày 18/10. Ông Thiệu đọc và biết đó là tờ huấn thị chung về ngừng bắn, gồm một bản Sơ thảo Hiệp định do Kissinger thỏa thuận với Lê đức Thọ. Ông Thiệu tức giận cho đó là sự phản bội trong khi Kissinger chưa nói cho VNCH biết mà nó đã được phát cho cán bộ CS . TT Thiệu càng tức giận thấy họ đàm phán sau lưng mình, ông đã nhờ Kissinger trong nhiều tháng cho Sài Gòn được đàm phán trực tiếp với Hà Nội hơn là bị coi như bù nhìn.
“Chúng tôi đòi được coi như thành viên. Thực ra chúng tôi cũng chẳng được hỏi ý kiến” (We asked to be treated as partners. Instead, we had not even been consulted) Walter Isaacson, Kissinger A Biography trang 453" [2]
* Tổng Thống Thiệu nói KHÔNG và bác bỏ ...
Tổng Thống Thiệu nói KHÔNG nếu các điều khoản trong hiệp định thiếu 3 điều: 1- đảm bảo tuyệt đối về vùng phi quân sự (DMZ), 2- phải rút toàn bộ lực lượng của Bắc Việt Nam, và 3- chấp nhận quyền tự quyết toàn bộ của miền Nam Việt Nam.
- Ngày 19.10.1972: Tại Dinh Độc Lập trong cuộc ngày 19.10.1972 Tổng thống Thiệu hỏi TS Kissinger:
"- Tổng thống Thiệu: Tôi muốn hỏi Tiến sĩ Kissinger, theo đánh giá của cá nhân ông với tư cách là một chính khách dày dạn kinh nghiệm, ông nghĩ Bắc Việt Nam mong đợi được gì khi ký kết thỏa hiệp, họ luôn hy vọng đạt được điều gì đó khi ký kết hiệp định trong thời gian ngắn. Đây là câu hỏi tôi muốn yêu cầu các ông hãy suy nghĩ lại và đặt mình vào vị trí của những người Cộng."
- Tổng thống Thiệu: Ông có nghĩ rằng Cộng sản có thể kiếm cớ để công bố hiệp định này nếu họ muốn giành lợi thế trên chính trường không?
- Tổng Thống Thiệu: Tôi muốn hỏi một câu hỏi rất thẳng thắn liệu ông có thể trả lời tại đây hoặc trong riêng tư. ... Nếu chúng tôi không thể ký thỏa hiệp này trước cuộc bầu cử, thời liệu Hoa Kỳ có cần phải công bố cho người dân biết rằng họ vẫn có ý định ký kết thỏa hiệp này không? " {FRUS #27}
- Ngày 20.10.1972- Cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Nixon, với Tướng Westmoreland và Tướng Haig, lúc 10:00 sáng, ngày 20 tháng 10 năm 1972 (Phòng Bầu dục)
"Tướng Westmoreland nói rằng theo quan điểm của ông, khó khăn lớn đối với việc thương thảo là vấn đề ngừng bắn tại chỗ và sự thiếu sót không có bất kỳ điều khoản nào đề cập đến các cam kết cụ thể đối với các sư đoàn Bắc Việt hiện đang chiếm đóng ở miền Nam. Ông chỉ ra rằng trong khuôn khổ của cuộc ngừng bắn mà không có sự cam kết về việc rút quân, điều này trên thực tế sẽ dẫn đến việc chấm dứt chủ quyền của Thiệu đối với các phần quan trọng của lãnh thổ Nam Việt Nam.
Tướng Westmoreland nói rằng theo quan điểm của ông, Tổng thống Thiệu không thể chấp nhận một thỏa hiệp như vậy và có thể sẽ bác bỏ nó. Một trong những vấn đề lớn đối với Thiệu là phải giữ được hình ảnh của người làm chủ số phận của mình. Tướng Westmoreland có lẽ quen thuộc với tính cách riêng của Thiệu hơn bất kỳ người Mỹ nào khác. Thiệu là một kẻ vô cùng đa nghi, mưu mô xảo quyệt, có khả năng nhạy bén và có tài mưu lược đã giúp ông ta có thể tồn tại qua bao nhiêu năm khó khăn-Thieu was an extremely suspicious man who was devious, capable of sharp turns, and had a conspiratorial outlook that had enabled him to survive through many difficult years. Điều cần thiết là Hoa Kỳ phải kiên nhẫn làm việc với Thiệu, và nhận ra cái khó khăn mà việc từ bỏ lãnh thổ của ông ta sẽ gây ra. Hơn nữa, cơ chế kiểm soát quốc tế trong thỏa hiệp dường như không có cơ sở, và không có các điều khoản cụ thể để đảm bảo rằng các vi phạm sẽ không xảy ra." {FRUS #33}
- Ngày 22.10.1972 - Theo bản văn trên thư viện online của Bộ Ngoại Giao, TS Kissinger dặn dò tướng Haig: - "Thiệu vừa bác bỏ toàn bộ kế hoạch hoặc bất kỳ sửa đổi nào của nó và từ chối thảo luận thêm về bất kỳ cuộc đàm phán nào trên cơ sở đó. Ông ta khẳng định rằng bất kỳ thỏa thuận nào phải có sự đảm bảo tuyệt đối về vùng phi quân sự (DMZ), phải rút toàn bộ lực lượng của Bắc Việt Nam và về quyền tự quyết toàn bộ của miền Nam Việt Nam. Tôi không cần phải nói cho ông biết chúng ta hiện đang đối mặt với cuộc khủng hoảng . Trước khi ông nói chuyện với Tổng thống, vui lòng ghi lại đánh giá nhanh của riêng ông. Trong thời gian chờ đợi, tôi sẽ có đánh giá của riêng tôi." {FRUS #41} [Nguồn từ FRUS #1 - FRUS #41].[3]
* TS Kissinger, Đại sứ Bunker tìm cách đối phó với TT Thiệu
TS Kissinger muốn nhanh chóng đạt được thỏa thuận, nên đã dặn dò đại sứ Bunker tìm cách đối thoại với Tổng Thống Thiệu. Sau đây tóm lược các yếu tố nhắc nhở đại sứ Bunker , để ông ta " nắm vấn đề" hầu liệu lời đối phó với TT Thiệu.
- Ngày 24-10.1972 - Kissinger to Bunker: ..."Thiệu phải hiểu rằng các lựa chọn thay thế của ông ta thực sự xoay quanh việc chấp nhận những gì tốt đẹp trong lời đề nghị hoặc kiên trì giữ một vị trí không khéo léo, điều này chắc chắn sẽ dẫn đến việc cắt giảm ngân sách của Hoa Kỳ thông qua hành động của Quốc hội, chứ không phải từ phía chúng tôi. Do đó, anh ấy bắt buộc không được tự đào hố chôn mình bằng cách miêu tả các hoạt động của tuần này như một cuộc đối đầu lớn hơn là một vòng tham vấn và thảo luận thiết yếu giữa chúng ta. ...Thiệu không nên ảo tưởng rằng ông có thể mong đợi một sự thay đổi cơ bản trong hiệp định như đã được soạn thảo hiện nay....Những nỗ lực của Thiệu để phát triển các đề xuất hòa bình thay thế chỉ có thể dẫn đến hậu quả là buộc hai chúng ta phải đối đầu. Chúng tôi sẽ không chấp nhận những đề xuất như vậy trong mọi trường hợp. {Kissinger to Bunker: 24.10.1972}.[4]
- Ngày 25.10.1972 - Kissinger to Bunker: Tổng thống muốn các ông tiếp tục làm việc với Thiệu một cách bền bỉ, có thể gặp lại ông ta thường xuyên hơn...Nếu các cuộc đàm phán đổ vỡ vì sự cố chấp của Thiệu, sẽ hoàn toàn không còn hy vọng tiếp tục nhận ðýợc hỗ trợ quân sự hoặc kinh tế của Hoa Kỳ cho miền Nam Việt Nam. Cuối cùng, Thiệu phải hiểu rằng chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để Hà Nội chấp nhận càng nhiều càng tốt những sửa đổi mà ông Thiệu đã đề xuất. Do đó, trong các cuộc thảo luận với Thiệu, bạn nên gây ấn tượng với ông ta về nhu cầu cấp thiết phải lập kế hoạch kỹ lưỡng cho trường hợp ngừng bắn trong tương lai rất gần và có lẽ sớm nhất là vào giữa tháng 11.
Tôi tin rằng chiến thuật tốt nhất của chúng ta trong việc đối phó với Thiệu là bạn phải gặp ông ta liên tục từ nay đến ngày 8 tháng 11- to meet with him repeatedly between now and November 8 , để cuộc gặp tiếp theo của tôi với ông ta có thể là lần cuối cùng. Ông ta phải hiểu về sự tham gia vào các cuộc họp với chúng tôi với tư cách là đối tác trong việc chấp nhận đề xuất hiện tại được sửa đổi ở mức độ có thể thực hiện được, hoặc chúng tôi sẽ tiến hành mà không có ông ta-or we will proceed without him.. Tại cuộc họp của tôi với ông ấy, nếu cần, chúng tôi có thể dứt khoát thông báo cho Thiệu biết rằng chúng tôi sẽ tiến hành mà không có ông ta -we can unequivocally inform Thieu that we will proceed without him- với tất cả những hậu quả đau buồn mà việc này gây ra cho ông ông ta.{ Kissinger to Bunker} [5] .
- Ngày 26.10.1972 - (Bunker to Kissinger)..."Tôi đã yêu cầu ông ta giữ kín bất kỳ cuộc thảo luận công khai nào cho đến khi chúng tôi có sự đồng thuận với ông ta và ông ta đã đồng ý làm như vậy - I asked him to hold up on any public comment until we have had an opportunity to concert with him and he agreed to do so". {Bunker to Kissinger} .[6]
* Tổng thống Thiệu không "giữ kín", nhưng không vi phạm lời hứa với Đại sứ Bunker ...
Theo điện văn của Đại sứ Bunker báo cáo về Hoa Thịnh Đốn nêu trên rằng: "Tôi đã yêu cầu ông ta giữ kín bất kỳ cuộc thảo luận công khai nào...và ông ta đã đồng ý làm như vậy". Bản văn này được gửi đi từ Sài gòn vào hồi 6:20 chiều ngày 26.10.1972 (Bản văn ghi: "Saigon, October 26, 1972, 1120Z." - giờ zulu time zone, hay là 18:20pm giờ Sài Gòn) có thể hiểu là TT Thiệu " phải gặp" Đại sứ Bunker vào buổi chiều. Còn buổi sáng ngày 26.10.1972 thì Tổng Thống Thiệu đã loan báo sự thể về các cuộc thảo luận liên quan đến hiệp định Paris với đoàn tuần hành gồm các nghị sĩ, các dân biểu và một số nghị viên HĐT trong Ban Đại Diện nghị viên HĐT toàn quốc. Đoàn tuần hành đến Dinh Độc Lập vào sáng ngày 26.10.1972 để hậu thuẫn cho lập trường của phía VNCH. Trước khi đến Dinh Độc Lập, tất cả ba phái đoàn tập trung tại tiền đình trụ sở Hạ Viện, để sau đó cùng tuần hành đến Dinh Độc Lập, và người viết cũng có mặt trong đoàn tuần hành này. Xin được chia sẻ câu chuyện như sau...
Số là vào ngày 9.9.1970, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập 554 nghị viên HĐ ĐTT toàn quốc về dự cơm tối tại tiền đình Dinh Độc Lập. Một ngày sau, 10.9.1970, 554 nghị viên họp tại trụ sở của Tòa Đô Chính để bầu ra Ban Đại Diện (gồm 14 người - người viết có tên trong BĐD này) tiện lợi cho các nghị viên trên toàn quốc có nơi liên lạc, hầu thực hiện yêu cầu của Tổng Thống Thiệu là chia sẻ các trở ngại tại địa phương với Tổng Thống. Cứ mỗi 2 tháng, 14 người trong BĐD chúng tôi vô Dinh Độc Lập trực tiếp gặp tổng thống để cụ Chủ Tịch BĐD trình bày các vấn đề do các nghị viên trên toàn quốc gửi về. Có 3-4 lần BĐD chúng tôi họp tại khách sạn nhà hàng Cyrnos Vũng Tàu, và tổng thống Thiệu cũng đến họp và dùng cơm tối với chúng tôi tại đây theo lời mời của vị Chủ Tịch BĐD.( Ban Đại diện HĐ ĐTT toàn quốc ngoài cụ Chủ Tịch NgV. Điều, còn có hai phó Chủ Tịch BĐD là NV. Trần Tấn Toan - CT HĐT Gia Định, và NV. Trần Thị Kim Anh- PCT HĐTX Vũng Tàu- Hai NV NgV. Điều và TrT.Toan tháng 10.1973 đắc cử vào Thượng viện)
Cuộc tuần hành trên nhằm tạo hậu thuẫn cho lập trường của phía VNCH như trên đã viết, để chống đối lại một số điều khoản trong hiệp định gây bất lợi cho phía VNCH, và theo như lời Tướng Westy chia sẻ nêu trên " trong khuôn khổ của cuộc ngừng bắn mà không có sự cam kết về việc rút quân..." . Nhất là về một số điều khoản cần được phía Mỹ làm rõ đã được TT Thiệu nêu ra với phái đoàn tuần hành khi đến Dinh Độc Lập vào ngày 26.10.1972. Vì vậy tổng thống Thiệu tuy không giữ kín, nhưng không vi phạm lời hứa với đại sứ Bunker, vì lời hứa giữ kín được đưa ra vào buổi chiều sau khi đã chia sẻ thông tin đến đoàn tuần hành và ban sáng.
Điều khoản trong dự thảo hiệp định về việc ngừng bắn tại chỗ, và quân CSBV không rút về miền Bắc, nên báo chí Sài Gòn mới ví von gọi là "hiệp định da beo". Riêng phía tỉnh của người viết vào thời gian cuối năm 1972 và đầu năm 1973 các đơn vị đồn trú trên lãnh thổ của tỉnh được Phòng 2 Tiểu khu phân phát cờ để treo tại một số vùng xôi đậu. Những vùng này vào ban ngày phía các đơn vị quân đội gỡ bỏ cờ MTGP và treo cờ quốc gia lên, đêm xuống thì VC tháo cờ quốc gia treo cờ MTGP... cho nên báo chí Sài Gòn hồi đó ví von gọi là cuộc " giành dân, lấn đất."
* Mỹ chia sẻ lý do hiệp định 10.1972 sụp đổ với Liên Xô và Trung Cộng.
Về việc phía Mỹ chia sẻ với phía Trung Cộng và Liên Xô về lý do hiệp định 10.1972 sụp đổ, để rồi nhờ hai đại sứ này chuyển lời đến MatCơVa và Bắc Kinh can thiệp, người viết sẽ trình bày sau dựa theo tài liệu của Bộ Ngoại Giao giải mật và công bố...
Nhân chuyện Mỹ-CSBV thảo luận về hòa đàm tại Paris 1972, người viết nhớ lại bài viết trước đây liên quan đến cuộc đối thoại giữa hai miền Nam-Bắc về " giải pháp Nhu- Hồ 1963". Theo tài liệu BNG nêu ra tại bài viết trước: " Đại sứ Lodge nên cảnh báo rõ ràng cho Diệm biết về sự nguy hiểm của việc đàm phán như vậy-Ambassador Lodge should give Diem a clear warning of the dangers of such a course, và cảnh cáo nếu tiếp tục theo đuổi sẽ dẫn đến việc Hoa Kỳ ngừng viện trợ.....Một khi cuộc đảo chính chống Diệm bắt đầu ở Nam Việt-Nam-Once an anti-Diem coup is started in South Viet-Nam,, điều đó sẽ thể hiện rõ ràng sự từ chối của Nam Việt-Nam về liên minh Diệm-Cộng- refusal of South Viet-Nam to accept a Diem-Communist coalition". <Việt Báo ngày 06.7.2021, đề tài: Bộ Ngoại Giao Mỹ và Vấn Đề "Hòa Giải Bắc-Nam" Việt Nam Năm 1963>. Phải chăng chỉ có Mỹ mới được quyền chủ động đề xuất nói chuyện " hòa đàm", còn miền Nam Việt Nam thời bị cấm kỵ và đó cũng là cái cớ để Mỹ lật đổ chính phủ VNCH 1963?
Và phải chăng cái lý do chính Mỹ muốn rút quân khỏi Việt Nam là vì " nếu Mỹ tiếp tục chiến tranh phần thắng sẽ nghiêng về phía Liên Xô, vì Liên Xô muốn Mỹ bị xa lầy tại Việt Nam "( the only gainer in having the war continue is the Soviet Union. They want the U.S. tied down ). < Việt Báo ngày 03.3.2021, đề tài: Mỹ bức tử VNCH theo yêu cầu của Tàu để Mỹ-Tàu hợp tác chống Liên Xô (1972)> chứ không phải vì Mỹ đổ quân vào Việt Nam để " bảo vệ cái tiền đồn" chống Cộng của Mỹ tại vùng Đông Nam Á như phòng thông tin Mỹ tại Sài gòn một thời từng rêu rao?
Còn tiếp.
Đào Văn
Nguồn:
[1]- Thư viện CIA 10.9.1972: Memorandum for Mr. Kissinger pdf
[2]- Trọng Đạt- Web QGHC: Thất bại lớn nhất của Kissinger
[3]- Thư Viện BNG, 8-23.10.1972: FRUS #1 to FRUS #41
[4]- Thư viện BNG 24.10.1972:Kissinger to Bunker: 24.10.1972
[5]- Thư Viện BNG 25.10.1972:Kissinger to Bunker: 25.10.1972
[6]- Thư viện BNG 26.10.1972:Bunker to Kissingerd; 26.10.1972