Hôm nay,  

Cảm nhận nhân đọc phân đoạn 1-3 tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư

21/10/202309:04:00(Xem: 878)
Cảm nhận

PTCAA_TranhPCK

Phế tích của ảo ảnh, tranh sơn dầu của họa sĩ Phan Chánh Khánh, 30”x30”, lấy cảm hứng từ tập thơ Phế tích của ảo ảnh của nhà thơ Trịnh Y Thư.



Với tôi, Trịnh Y Thư, trước hết là một nhà thơ, với thi phẩm Phế Tích Của Ảo Ảnh; là một nhà văn, với các tác phẩm Chỉ Là Đồ Chơi, Theo Dấu Thư Hương; là một dịch giả các tác phẩm ngoại quốc nổi tiếng như Cái Cười Và Sự Lãng Quên, Jane Eyre, Đời Nhẹ Khôn Kham, Căn Phòng Riêng; là một  cầm thủ ghi-ta cổ điển, một nhạc sĩ sáng tác. Với tư cách nào Trịnh Y Thư cũng chinh phục được người đọc, người nghe. Nói riêng về lãnh vực thơ văn, văn phong trữ tình mà không thiếu ánh sáng lóng lánh của trí tuệ. Có đủ cả hai như thế là do Trịnh Y Thư vừa có trái tim nhạy cảm của nhà thơ vừa có nội lực dồi dào của tri thức. Điều đó càng khẳng định hơn khi gần đây, Trịnh Y Thư đã phổ biến trên các trang web một số truyện ngắn, và các trích đoạn của tiểu thuyết sắp xuất bản “Đường Về Thủy Phủ”. Tôi cũng như một số bằng hữu không khỏi ngỡ ngàng về cuộc dấn thân mới mẻ trong lãnh vực tiểu thuyết của anh, không riêng là lần đầu thể hiện, mà thể hiện một cách rất mới và rất khác từ lời văn cho đến kết cấu câu truyện. Không lặp lại ai, không theo một khuôn mẫu nào, chỉ là nổi bật một Trịnh Y Thư bản lĩnh, can đảm, nghiêm khắc và nhân ái.
    Tôi viết những cảm nhận ở đây căn cứ vào những trích đoạn đã phổ biến, không đặt nó vào bối cảnh toàn diện của cuốn tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”, vì cuốn sách chưa ra đời, nhưng cũng có được cái nhìn về thủ pháp bố cục truyện và văn phong của nhà văn Trịnh Y Thư. Qua trích đoạn này, được cấu trúc từ phi hiện thực để giải mã hiện thực, khiến anh có một thái độ khách quan khi đặt vấn đề đối với những sự kiện liên hệ đến ý thức hệ và sự kiện lịch sử, và cũng làm cho diễn biến câu truyện có những gút mở thú vị hơn. Bất cứ một gợi mở tiểu đề nào của Trịnh Y Thư cũng đưa tới người đọc một dấu hỏi, và không dễ hài lòng, phải đọc tới đọc lui một số đoạn văn, phải đọc cho tới dấu chấm cuối cùng của câu truyện, để tìm câu trả lời thỏa đáng cho nghi vấn của mình. Bạn phải lần theo sợi chỉ tự sự của một nhân vật ảo để tự tìm thấy chủ đề mà tác giả muốn nói đến. Cho dù như vậy đi nữa, bạn cũng vẫn không thôi băn khoăn về nó. Bạn muốn tìm thấy tác giả? Vô ích. Ở đây chỉ có câu hỏi, vấn đề khơi gợi. Cứ tưởng như bạn đang được mời tham dự một trò chơi, cách nắm bắt điều khiển tùy vào bạn. Không biết đó có phải là một trong những tố chất khiến tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ” có lực hút người đọc?
    Ở trích đoạn 1-3 trong tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”, mặt khác theo tôi, nó cũng có thể đứng độc lập là truyện ngắn. Một kiểu truyện không có cốt truyện, Trịnh Y Thư có một lối dựng truyện rất lạ, hư cấu từ sự xuất hiện của nhân vật cho đến những cảnh ngộ mà nhân vật đó sống. Ở đây có hai nhân vật, Tôi và Gã Nhà Văn, trong đó, Tôi lại là một nhân vật của Gã Nhà Văn. Nhưng Gã Nhà Văn chỉ được nhận diện qua lòng thù hận bởi nhân vật của Gã. (Cho nên tôi đã cãi với chính mình, thật ra chỉ có một nhân vật xưng là Tôi thôi). Có lúc tôi ngừng lại giữa một trạng thái như phân thân, tự hỏi, mình đang lạc vào truyện của nhân vật Gã Nhà Văn, hay truyện của Trịnh Y Thư? Hay chẳng là của ai vì tình tiết diễn biến câu truyện cứ thế bật ra từ suy tư của một nhân vật ảo.
     “Tôi thù gã nhà văn khôn tả. Tôi thù gã đến độ tôi muốn giết chết gã…
    Tôi thấy khuôn mặt tôi đanh lại, tiếng nói tôi nhỏ nhẹ như thì thầm với trái tim của gã. Trái tim ơi, sau phút giây này mi sẽ vĩnh viễn nằm im trong cái lồng ngực thâm u mông muội ấy và ngàn đời mi chẳng bao giờ nhìn thấy ánh sáng của trí huệ. Mi sẽ nằm mãi trong cái ngục tối ấy cho đến khi vũ trụ này tan biến trở về cõi huyền tẫn mịt mù như thuở hồng hoang khi vạn vật mới chỉ là khối cát bụi hỗn huyễn, ngu ngơ. Mi sẽ không còn khả năng nhân danh những điều diệu kỳ, cao đẹp hay bất cứ cái gì để thỏa mãn lòng tham đê hèn vô độ của mi. Sẽ không có luân hồi cho mi, sẽ không có kiếp nào cho mi nữa, mi sẽ không bao giờ đầu thai lên cõi trần làm bất cứ sinh vật gì. Mi sẽ đời đời kiếp kiếp nằm sâu trong ngục tối của cõi a tỳ để ăn năn sám hối về những gì mi đã gây cho ta…”
    Nhân vật Tôi xuất hiện với một tâm thái vừa thù hận, vừa ảnh hưởng của triết lý Phật Giáo, về nhân quả, luân hồi.
    “Nhưng tôi chẳng thể nào giết chết gã nhà văn bằng mũi dao nhọn như thế được, bởi tôi chỉ là người con gái chân yếu tay mềm, và quan trọng hơn, giết gã như thế, máu từ vết thương trên người gã sẽ bắn vọt ra làm ô uế tấm áo lụa màu trắng tinh khiết trên người tôi. Và bởi tôi chỉ là ảo ảnh. Tôi chỉ hiện hữu trong thần trí tưởng tượng của gã, một thần trí tưởng tượng chẳng liên quan gì đến suy nghĩ trong đầu óc tôi lúc này”.
    Nhân vật này phủ nhận nhân vật kia, nói khác, một thần trí tưởng tượng và một thực-thể-ảo xung đột nhau, là sự va chạm giữa ảo và thực, tuy cả hai ảo thực đều thuộc phạm trù triết lý siêu hình. Tôi cho rằng với cấu trúc như vậy, đưa đến hai hiệu quả khả dĩ có thể, tác giả độc lập với nhân vật của mình, phó thác cho nó tự do suy tưởng, và nhân vật cũng không lệ thuộc vào tác giả, làm câu truyện có  tính phổ quát hơn. Một cấu trúc quả là lợi hại. Tôi nói thế vì trong việc viết lách đã có chút kinh nghiệm thất bại khi bị ràng buộc vào mối liên quan giữa mình với nhân vật.
    “Nhưng rồi chuyện gì xảy ra và họ bị lùa vào đây sống như bầy súc vật, tôi nói thế bởi lý do giản dị là bản năng súc vật của họ không thể không chui ra từ đáy sâu bản ngã họ, gầm gào múa nanh múa vuốt để sinh tồn trong vũng bùn nhầy nhụa hôi tanh này. Họ chẳng là con người cả đấy ư? Nhưng một khi biến thành súc vật rồi, linh hồn họ còn không? Họ còn cơ hội quay trở lại làm người không? Hay cuộc sống vẫn mãi thản nhiên trôi chảy?”
    Điều này đã khẳng định trong lịch sử tất cả những nhà tù, lò sát sinh con người, từ ngàn xưa cho đến nay, không ai không thấy, nhất là nạn nhân, không khỏi khiếp sợ khi bị rơi vào tình huống con người bị kích động bản năng súc vật. Tôi cảm thấy nỗi đau của tác giả khi viết những đoạn như vậy, phải chăng đó cũng chính là nỗi phiền muộn nặng nề vô vọng của anh khi nghĩ về thân phận con người, sự tàn bạo của con người, và phải dùng đến một nhân vật hư cấu để ám chỉ? Đó cũng là cách để bớt phẫn nộ – đây là hiệu quả thứ ba của thủ pháp Trịnh Y Thư:
    “Quả thật tôi không tin tưởng gì cả vào sự tốt lành của cuộc sống và sự hiện hữu của tôi nơi đây, trên thế gian này, hoàn toàn là không do chủ ý của tôi”.
    Nhân vật “Tôi”, nàng luôn giãy giụa để trốn thoát, để được sống với cái bản nguyên chính của nàng lúc mới được gã nhà văn tạo dựng: “Tấm áo lụa màu trắng tinh khiết”. Gã Nhà Văn thì cũng đầy chán chường trong cuộc sống thừa thãi ham muốn, cô đơn, gã trốn chạy bấu víu vào nhân vật tưởng tượng của mình để rốt cuộc thấy rằng “Tốt hơn anh chỉ nên sống với ảo ảnh”.  Ở đâu trên thế gian này cũng bùng nổ những cuộc trốn chạy. Nơi nào để nương náu cùng với nỗi cùng quẫn, cô đơn của con người? Một cái kén ảo như Gã Nhà Văn kia chăng?
    Và có phải “Bà sống thật với đời sống này nên bà hạnh phúc. Chẳng lẽ hạnh phúc lại giản dị tới mức đó sao? Nếu thế tại sao người ta phải tốn biết bao giấy mực để nói về hạnh phúc mà chẳng bao giờ tìm ra lời giải đáp?”
    Thế nào là sống thật với đời sống này? Đơn giản hóa tối thiểu suy tư? Bình thường hóa những nghịch lý, bất công, đôi khi đến vô nhân đạo của cuộc sống và con người? An phận với thuyết Định Mệnh? Một hạnh phúc có được như thế có thực sự là nghĩa của hạnh phúc không? Vẫn mãi là câu hỏi từ xưa đến giờ, như thể hỏi và tìm là hành trình của cuộc sống.
    “Còn lại một mình trong căn phòng lạ bên bờ biển hiu quạnh, tôi không biết mình đang ở đâu trên mặt hành tinh này. Sự thanh vắng của vùng biển lạnh lẽo heo hút càng khiến tôi thấy cô độc. Cuộc sống này có gì vui đâu mà người ta thèm sống đến thế? Tôi tự hỏi trong lúc dõi tia mắt qua ô kính cửa sổ nhìn những cánh hải âu chao lượn ngoài trời. Câu hỏi có lẽ đã được nhiều người hỏi trước tôi. Có lẽ nó là câu hỏi có từ khi con người mới bắt đầu có ý thức về cuộc sống, và bởi thế tôi không nên tìm kiếm câu trả lời”.
    Tôi thấy không yên ổn và thương cảm khi nhân vật này sau bao phẫn nộ, thù hận, tra vấn, để rồi “Trong lúc gã đi vào tôi, đầu tôi hất ra đằng sau, hai mắt nhắm nghiền và tôi cố trôi theo dòng nghĩ tôi là người đàn bà của gã.”
    An phận, thúc thủ. Trôi theo dòng nghĩ, trôi theo dòng đời?
Đọc hết trích đoạn 1-3 này tôi vẫn bị vướng mắc trong dấu hỏi, thêm cả buồn bã nữa. Cả câu truyện không là truyện này là một chuỗi tra vấn của nhân vật, chạm đến mọi khía cạnh về cuộc sống và bản chất con người, làm sao để tìm được hạnh phúc giữa nghịch cảnh và những mâu thuẫn nội tại con người? Dưới cấu trúc dựa vào hư cấu để hiện thực một cuộc truy tìm và lôi ra ánh sáng những điều tội tệ nhất trong thẳm sâu bản ngã con người, mà vì một số những rào cản về đạo lý, hoặc vì dối trá, người ta đã không thẳng thắn thừa nhận. Nếu dụng ý của tác giả là để người đọc “phản quang” lại mình, thì với trích đoạn 1-3 “Đường Về Thủy Phủ” này, anh đã thành công. Đặt không gian truyện trên một nền ảo toàn bộ như thế, có thể, vô hình trung, Trịnh Y Thư đã khiến cho ta thấy một nhân sinh quan nhuốm chút ít màu sắc giáo lý nhà Phật, cái thực tướng của con người kia chỉ là giả, là tạm, thì sao phải trăn trở với quá nhiều hệ lụy của cuộc sống, của lòng tham và thù hận. Sáng tỏ được điều này thì, với riêng tôi, khả dĩ tìm được một điểm tựa yên bình sau khi viết một bài, chẳng nhiều cảm nhận mà toàn là câu hỏi.
    Tuy thế, có lúc tôi được đi vào dưới hai hàng cây bóng mát, nghỉ ngơi sau một đoạn đường nắng bỏng. Bóng mát của văn chương trữ tình làm tôi vương vấn.
    “… Có những con đường với hai hàng cây cổ thụ san sát nhau đan thành cái vòm trên cao trông như họng một con quái thú đang nuốt chửng chúng tôi vào…”
    “… Tôi quấn mảnh khăn lụa che mái tóc rồi bước ra ghềnh đá đen đúa sát gần mực nước. Sóng biển vỗ tung tóe vào ghềnh đá dưới chân tôi. Đang là mùa hè nhưng gió biển vẫn lạnh căm. Tôi không biết đây là đoạn biển nào, ở đâu, chỉ biết phong cảnh xung quanh trông hoang sơ, vắng vẻ lắm. Bên cạnh cái khách sạn không quá mươi phòng chúng tôi ngủ đêm nay là một quán ăn nhỏ lụp xụp le lói ánh đèn, xa hơn tí nữa vài nóc nhà rầu rầu ẩn hiện dưới làn sương lam chiều lờ mờ, ảm đạm”.
    “… vài nóc nhà rầu rầu ẩn hiện dưới làn sương lam chiều lờ mờ, ảm đạm,”
    Tất cả kéo tôi trở lại là mình với những cảm xúc dịu dàng. Ở đó tôi gặp Nhà Thơ Trịnh Y Thư.
    Cho dù dưới làn sương tất cả hiện hữu cũng chỉ là ảnh ảo.

 

– Nguyễn Thị Khánh Minh

(Oct. 11/2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ lớn của nước Việt trong thế kỷ 20. Ộng có địa vi cao cả trên thì văn đàn miền Nam và là người duy nhất được tôn xưng là thi bá...
Những phân đoạn này thuộc vào phần có tựa là “Dưới những gốc nho biển,” nằm trong tiểu thuyết “Đường về thủy phủ.” Tuy nhiên, cũng như phân đoạn [1-3] tôi đã nói ở trên, nó vẫn mang đủ những yếu tố của một truyện ngắn. Hẳn nhiên người đọc sẽ thấy rõ đây là dụng ý của tác giả. Và chỉ đến lúc đọc xong trọn “Đường về thủy phủ,” thì mới có một suy nghiệm tổng thể, và có thể bật ra cách ráp nối những mảnh hình, những sự kiện, và lóe sáng một sợi dây xuyên suốt tác phẩm qua bản chất của các nhân vật, để từ đó hiểu rõ hơn chủ đề của nhà văn Trịnh Y Thư...
Bùi Giáng qua đời tại Sài-gòn tháng 10-1998, tới tháng 10 năm này, 2023, đúng là 25 năm, một phần tư thế kỷ “Vắng bóng người Điên giữa kinh thành”. Trong tất cả các bút hiệu của Bùi Giáng, Sáu Giáng là tên hiệu dễ thương với mọi người, Bùi Giáng lại thích “anh Sáu Giáng” nhất; bởi/từ cái gốc gác quê mùa, đồi sim, ruộng lúa, tiếng gà trưa, con cò bãi nước xa, cái nền nhà lát gạch hoa, đứa con thứ sáu trong gia đình tộc Bùi, thằng bé Giáng tập bò tập đi.
Có cách nào để tìm hòa bình cho vùng Trung Đông? Hãy hình dung về một phép thần nào đó, làm cho quân Israel và quân Hamas buông súng, cùng bước tới bắt tay nhau bùi ngùi, nước mắt ràn rụa, cùng nói rằng tất cả chúng ta hãy sống như một trẻ em mới sinh ra, rằng hãy quên hết tất cả những ngày đau đớn cũ, và cùng trải bản đồ ra vẽ lại, sao cho các thế hệ tương lai không bao giờ nghĩ tới chuyện cầm súng giết nhau nữa. Hình như là bất khả. Đúng là có vẻ bất khả, để có thể sống như một trẻ em mới sinh ra đời. Chỉ trừ, vài thiền sư và nhà thơ. Tôi có một giấc mơ. Vua Trần Nhân Tông bay từ đỉnh núi Yên Tử tới vùng Gaza, ngay nơi cửa khẩu đang mịt mù khói súng. Bên ngoài cửa khẩu là hàng ngàn xe tăng Israel đang chờ tiến vào, bên trong là nhiều đường hầm và hố chiến hào nơi chiến binh Hamas thò mắt nhìn ra để chờ trận chiến cuối đời của họ. Ngay nơi cửa khẩu là một giáo sĩ Đạo Do Thái ngồi đối diện, nói chuyện với một giáo sĩ Đạo Hồi, trước khi họ có thể nhìn thấy đồng bào của họ xông vào nhau.
Tiểu thuyết gia, thi sĩ và kịch tác gia người Na Uy Jon Fosse – người ngày càng thấy số lượng độc giả trong thế giới nói tiếng Anh càng tăng vì những cuốn tiểu thuyết viết về những đề tài tuổi già, cái chết, tình yêu và nghệ thuật – đã được trao Giải Nobel Văn Chương hôm Thứ Năm, 5 tháng 10 năm 2023, “vì những vở kịch và văn xuôi đầy sáng tạo giúp tiếng nói cho những điều không thể nói,” theo bản tin của báo The New York Times cho biết hôm 5 tháng 10 năm 2023. Điều này đã làm cho Fosse trở thành người đầu tiên lãnh giải thưởng Nobel Văn Chương viết bằng tiếng Nynorsk. Ông là người Na Uy thứ tư đoạt giải này và là người đầu tiên kể từ Sigrid Undset trúng giải vào năm 1928. Là tác giả đã xuất bản khoảng 40 vở kịch, cũng như tiểu thuyết, thơ, tiểu luận, sách thiếu nhi và nhiều tác phẩm được dịch sang nhiều thứ tiếng, Fosse đã từ lâu được quý trọng vì ngôn ngữ bao dung, siêu việt và thử nghiệm chính thức của ông.
Kỷ vật, không trừu tượng, là một thứ gì bằng vật chất ghi lại, cưu mang, hoặc ẩn tượng một kỷ niệm nào đó. Loại kỷ niệm có động lực gợi lại những vui buồn, thương tiếc, nhớ nhung; có khả năng làm nhếch một nụ cười hoặc làm mờ khóe mắt. Có những kỷ vật dù đã mất nhưng không quên. Mỗi đời người càng sống lâu, càng có nhiều kỷ vật. Điều này cất vào kho tàng quá khứ, có hay không, nhiều hạnh phúc đã qua mà mùi hương không bao giờ xao lãng.
Có một tương đồng giữa Tổng Thống Hoa Kỳ Joe Biden và Tổng Bí Thư CSVN Nguyễn Phú Trọng. Đó là đôi khi họ làm thơ. Nhưng dị biệt lớn giữa hai nhà thơ tài tử này chính là chủ đề, là nguồn cảm hứng để làm thơ. Nguyễn Phú Trọng làm thơ ca ngợi ông Hồ Chí Minh và những chủ đề tương tự, thí dụ, một lần ông Trọng làm ca ngợi khách sạn Mường Thanh Grand Phương Đông. Nhưng Tổng Thống Biden chỉ làm thơ tình, và chỉ tặng vợ thôi. Chúng ta không nói rằng thơ hay, hay dở, chỉ muốn nói rằng trong tâm hồn của Biden là hình ảnh thướt tha của Đệ nhất phu nhân Jill Biden. Và trong tâm hồn của ông Trọng là những khối xi măng có hình Lăng Ông Hồ, và rồi hình khách sạn Mường Thanh. Không hề gì. Thơ vẫn là thơ (giả định như thế). Bây giờ thì hai nhà thơ Joe Biden và Nguyễn Phú Trọng đã gặp nhau.
Truyện Thạch Sanh Lý Thông lưu truyền trong dân gian dưới hình thức chuyện kể truyền miệng chắc có đã lâu, phải hiện hữu trước khi ông Dương Minh Đức đưa bản văn sáng tác của mình sang bên Quảng Đông khắc ván ‒ cũng như đã từng đưa vài chục tác phẩm khác của nhóm, nhờ đó miền Nam Kỳ Lục tỉnh có được một số tác phẩm Nôm đáng kể mà người nghiên cứu Nôm thường gọi là Nôm Phật Trấn...
Sau tháng Tư năm 1975, tất cả những tác phẩm truyện ngắn truyện dài của các tác giả Việt Nam Cộng Hòa [1954-1975] đều bị chế độ mới, Xã hội chủ nghĩa cấm in ấn, phổ biến, lưu trữ. Tên tuổi tác giả, tác phẩm được công bố rõ ràng. Việc tưởng xong, là quá khứ. Bỗng dưng 32 năm sau năm, 2007, từ Hà Nội một nhà văn có chức quyền, có Đảng tịch, ông Phạm Xuân Nguyên, vận động, hô hào sẽ in lại một số tác phẩm Miền Nam, đang bị cấm. Trước tiên là 4 [bốn] tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu. Đó là các tác phẩm Đôi mắt trên trời, Cũng đành, Tiếng sáo người em út và Nhan sắc. Khi sách được phát hành có ngay phản ứng. Rất nhiều bài báo lần lượt xuất hiện liên tiếp trên các báo tại Sàigòn “đánh/ đập” ra trò. Hóa ra, những người vận động in lại sách là các cán bộ văn hóa từ Hà Nội. Hung hăng đánh phá là những cây bút… Sàigòn. Trong đó có Vũ Hạnh, một cán bộ nằm vùng, người trước kia bị chế độ Miền Nam bắt giam tù, Dương Nghiễm Mậu là một trong số các nhà văn, ký đơn xin ân xá cho Vũ Hạnh.
Kể lạ, ở “nước non mình”, bút hiệu của các nhà sáng tác qua nhiều lãnh vực văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa, nghiên cứu phê bình, truyền hình, báo chí, diễn viên, có bút hiệu/danh, là Sơn [không kể Sơn ở đầu như Sơn Nam, Sơn Tùng, Sơn Vương…] là đông vô số kể. Thiếu Sơn, Triều Sơn, Trúc Sơn, Phạm văn Sơn, Trịnh Công Sơn, Mai Sơn, Phong Sơn, Vân Sơn, Trần văn Sơn, Linh Sơn, Trần Áng Sơn, Từ Sơn, Vinh Sơn, Tiến Sơn, Cao Sơn, Ngô văn Sơn, Lê Thái Sơn, Nguyễn Lê La Sơn, Lê Tây Sơn. Chu Sơn, Tùng Sơn, Hoài Sơn, Đào Bá Sơn…Trong đó hai ông Sơn thi sĩ là….đáng yêu nhất. Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Bắc Sơn. Đáng yêu, vì hai ông này đều có tài, đều có cái lạ trong thơ, lẫn ngất ngư, ngất ngưỡng, ngất ngây trong đời sống.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.