Hôm nay,  

Nhã Ca, Tiếng Chuông Thiên Mụ

21/05/202311:38:00(Xem: 3946)
Tản mạn văn học

IMG_0297

Nhiều năm trước, tôi có tham dự buổi ra mắt tác phẩm Mouring Headband For Hue của nhà văn Nhã Ca tại Toronto. Nghe danh Nhã Ca-Trần Dạ Từ đã lâu từ trong nước mãi đến nay tôi mới gặp cả hai ông bà. Mouring Headband For Hue do giáo sư Sử học, Tiến sĩ Olga Dror thuộc Đại học Texas A&M University chuyển ngữ từ tác phẩm Giải Khăn Sô Cho Huế, tập hồi ký của Nhã Ca in tại Sài Gòn 1969, được Giải Văn Chương Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa năm 1970.
    Trong cuộc tổng tấn công Mậu Thân Huế, tác giả Giải Khăn Sô Cho Huế là chứng nhân trước thảm cảnh thành phố Huế bị tàn phá và hàng chục ngàn người dân bị tàn sát. Sau hơn hai tháng sống kề cận với cái chết, Nhã Ca về Sài Gòn đã viết nên những trang hồi ký Giải Khăn Sô Cho Huế kể lại những điều mắt thấy tai nghe trong cuộc tổng công kích của Cộng Sản vào thành phố lịch sử Huế. Tuy nhiên, trước đó bà phải đợi tình hình thời sự sau biến cố Tết Mậu Thân cũng như "những hậu ý xô bồ của thời cuộc" lắng xuống đến gần hai năm sau, "Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đã được thu nhặt dần…" tác phẩm này mới thực sự ra đời. Khi Giải Khăn Sô Cho Huế vừa xuất bản đã sớm đến tay độc giả, từ đó toàn bộ tác quyền của tác phẩm nổi tiếng này được tác giả dành tặng cho Huế.
    Nhưng sau năm 1975, vì nội dung trong tác phẩm Giải Khăn Sô Cho Huế, Nhã Ca bị nhà nước Cộng Sản bắt giam hai năm. Chính cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế bị liệt vào hàng phản động, trưng bày trong “Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy” là chứng tích kết tội bà “biệt kích văn hóa” trong khi chồng bà, nhà thơ Trần Dạ Từ, sống lây lất trong tù đến 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân Xá Quốc tế và thủ tướng Thụy Điển Ingvar Carlsson, ông bà được sang Thụy Điển tị nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam đến nay.
    Đọc Giải Khăn Sô Cho Huế người đọc nhận ra những nạn nhân trong trận Tổng công kích Mậu Thân Huế đã chết dưới những viên đạn và những nhát cuốc ác liệt của phía bên kia là nỗi đau của cộng đồng và là cái tang chung cho cả nước. Ở nhà văn nữ này, cuốn hồi ký trên là sự kết hợp của trí tuệ trang nghiêm, sâu lắng, giản dị và nhân từ. Cho đến nay tôi vẫn nghĩ rằng chữ nghĩa thâm trầm nhưng gần gũi thân thiết kia như giải khăn sô hay đúng hơn là tấm khăn tang mà tác giả dụng ý đắp lên nỗi oan khiên của người Huế, những nạn nhân vốn cần cù, giản dị, gần gũi và bình thường như bất kỳ người dân đất Thần Kinh hiền lành như đất đai, như cây lúa mà tôi đã từng gặp. Thật ra chết dưới mọi hình thức nào cũng là chết, nhưng không đâu trên khắp đất nước này cái chết lại tàn bạo như ở Huế.   
    Ở Nhã Ca-Trần Dạ Từ tôi luôn cảm phục và kính trọng nhân cách của hai ông bà và những người con, trong cơn khốn khó vẫn âm thầm che giấu nhà văn Mai Thảo trong nhà mình, giữa lúc Mai Thảo đang bị nhà nước Cộng Sản truy lùng ráo riết.
    Nhã Ca sinh năm 1939 tại Huế, dù sớm lìa quê Huế nhưng suốt đời bà, Huế vẫn là niềm thương khó, là nỗi ám ảnh khôn nguôi. Những tưởng Huế muôn đời trầm mặc, cổ kính nhưng chiến tranh đã làm Huế hiển lộ và trong nỗi khốn khổ đó Nhã Ca đã gặp lại Huế như một kiếp số mà không cách gì thoát ra được. Hình như cuộc đời bà, số phận bà và Huế cùng gánh chung một nỗi đau đời, quá sức. Chính vì lẽ đó, Nhã Ca và Huế, Huế và chiến tranh đã làm ra Giải Khăn Sô Cho Huế. Đọc hồi ký này có lẽ nhiều người cũng như tôi như nuốt nhầm một thứ tai họa to lớn của Huế cùng với máu và nước mắt chảy ngược vào lòng.
    Tôi vẫn còn nhớ hồi ở lính tôi đến với thế giới thơ Nhã Ca trước khi đọc tản văn của bà. Cũng nhờ anh bạn cùng đơn vị ở Pleiku sưu tầm thơ của các nhà thơ nữ, anh chịu khó chép tay, đóng thành tập và tự đặt một cái tựa là lạ Tiếng Gió Chuông. Văn học miền Nam vào thập niên 1960 rất ít nhà thơ nữ nên tập thơ chép tay Tiếng Gió Chuông chỉ có vài chục trang giấy học trò. Bài thơ đầu tiên tôi đọc là bài Tiếng Chuông Thiên Mụ của Trần Thy Nhã Ca sau này tôi mới biết là của nhà thơ kiêm nhà văn xứ Huế – Nhã Ca:
 
Tôi lớn lên bên này sông Hương
Con sông chẻ đời ra những vùng thương nhớ
Cây trái Kim Long, sắt thép cầu Bạch Hổ
Cửa từ bi vồn vã bước chân sông
Mặt nước xanh trong suốt tuổi thơ hồng
Tháp cổ chuông xưa sông hiền sóng mọn
Những đêm tối bao la những ngày tháng lớn
Những sáng chim chiều dế canh gà
Tiếng chuông buồn vui dợn thấu xương da
Người với chuông như chiều với tối

Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn

Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy
Tiếng chuông đến và đi chỉ mình tôi thấy
Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền
Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố
Tiếng chuông tan dài như đêm không ngủ
Tiếng chuông tan tành như tiếng vỡ trong tôi

Từ dạo xa chuông khôn lớn giữa đời
Đổi họ thay tên viết văn làm báo
Cơm áo dậy mồm ăn lơ nói láo
Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư
Tháp cổ chuông xưa, sông nhỏ sương mù
Dòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục
Con đường cũ trong hồn nghe cỏ mọc
Chuông cũ giờ đây bằn bặt trong da
Tuổi hồng sa chân chết đuối bao giờ
Ngày tháng cũ cầm bằng như thác lũ

Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ
Tiếng chuông xưa bừng sống lại trongtôi
Tiếng chuông xưa kìa tuổi dại ta ơi
Chuông oà vỡ trong tôi nghìn tiếng nói
Những mảnh đồng đen như da đêm tối
Những mảnh đồng đen như tiếng cựa mình
Những mảnh đồng đen như máu phục sinh
Những mảnh đồng đen kề nhau bước tới

Tôi thức dậy rồi đây chuông ơi chuông hỡi
Tôi thức dậy đây tôi thức dậy rồi
Thưc dậy thực sự rồi
Thức dậy cùng giông bão, thức dậy cùng tan vỡ
Thưc dậy cùng lịch sử
Mẹ hiền ơi thành phố cũ chiều nay

Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay
Trên mặt nước trên mặt người mặt lộ

Cho con trở về đừng mê sảng ngó
 
(Sài Gòn, 9-1963)
 
Tiếng chuông của bài thơ này không những ngân vang thật xa mà còn mang theo nỗi buồn của người con gái Huế. Cố đô Huế là cái nôi của Phật giáo, mảnh đất thần kinh có nhiều chùa chiền linh thiêng. Đặc biệt là chùa Thiên Mụ, nhất cổ tự xứ Huế được xây dựng năm 1601 bởi chúa Tiên Nguyễn Hoàng, vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong. Chùa Thiên Mụ với tiếng đại hồng chung ngân rất xa, từ lâu đã đi vào thơ ca.
    Bài thơ của Trần Thy Nhã Ca làm tôi nhớ hồi trẻ tôi hay lon ton trên những nẻo đường, cũng từng được nghe tiếng đại hồng chung của chùa Khải Đoan, Banmêthuột, chùa Linh Mụ, Huế, chùa Linh Sơn, Đà Lạt và chùa Quang Minh, Đồng Xoài.
   Tiếng Chuông Thiên Mụ của Nhã Ca sáng tác tại Sài Gòn 1963, sáu năm sau tôi mới được đọc bằng bản chép tay và mãi đến tháng 5/2023 ở quê người tôi phổ thành ca khúc mang cùng tên.
    Nhã Ca tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh năm 1939 tại Huế. Năm 1960 vào Sài Gòn bắt đầu sự nghiệp thơ văn. Nhã Ca Mới là tập thơ đầu tay. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác: Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng, Đường Tự Do Sài Gòn (2006), O Xưa (2023).

 

– phan ni tấn

Tiếng Chuông Thiên Mụ_PNT

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lily, cô gái con người quản gia, thực sự không giây phút nào được nghỉ chân. Cô vừa mới đưa một quý ông vào gian phòng nhỏ phía sau văn phòng ở tầng trệt và giúp ông cởi áo khoác ngoài thì tiếng chuông cửa rè rè lại vang lên và cô lại phải tất tả bước dọc theo hành lang trống trải để đón một vị khách khác vào.
Nhân câu hỏi ông Đặng Minh Phương nêu ra, xin được đóng góp chút ý kiến khiêm nhượng vào chuyện này. Để giúp các bạn trẻ từ trước chưa có hoàn cảnh biết nhiều về mấy câu thơ trên, tôi xin được tóm lược câu chuyện từ đầu.
Chủ đề chính kết nối các truyện ngắn trong tuyển tập Beyond Borders (Vượt Qua Những Biên Giới) (nxb Da Màu Press) là khái niệm phức tạp và đa diện về biên giới. Như tựa của tuyển tập, mỗi câu chuyện hứa hẹn một khám phá đặc thù về khái niệm này. Biên giới là gì? Liệu đó có phải là một ranh giới hữu hình, như một hàng rào hay trạm kiểm soát phân chia các không gian địa lý và chủng tộc? Hay thuật ngữ này cũng đã khai triển/mở rộng để bao hàm những ranh giới hầu như vô hình và vô thức, như các cấu trúc ngôn ngữ, xã hội và văn hóa đã định hình bản sắc và mọi liên hệ cá nhân và tập thể? Có lẽ trong thế giới ngày càng kết nối chặt chẽ của chúng ta, biên giới hiện diện khắp nơi, cả hiển nhiên lẫn tiềm ẩn.
Từ khi du học ở Pháp vào đầu thập niên 1950’, trở về Việt Nam làm việc cho hãng Shell rồi sang Pháp làm việc cho đến khi về hưu và định cư cho đến nay… cả cuộc đời nhà văn Tiểu Tử gắn bó với tiếng Pháp nhưng khi cầm bút nơi xứ người với văn phong đặc biệt “miền Nam”, giản dị, ngắn gọn, chân chất, dí dỏm từ giọng văn và các mẩu đối thoại. Về tiểu sử cũng ngắn gọn: Tiểu Tử tên thật là Võ Hoài Nam, sinh năm 1930 tại Gò Dầu Tây Ninh. Ông là con trai duy nhứt của nhà giáo Võ Thành Cứ, giáo sư trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955. Dạy lý hoá trung học ở ngôi trường nầy niên khóa 1955-1956. Tháng 10/1956 làm việc cho hãng dầu Shell Việt Nam từ năm tháng 10 1956 đến 30/4/1975. Trong 3 năm (1975-1978) được trưng dụng làm việc cho hãng nầy. Trong thời gian đó, vượt biên 3 lần nhưng thất bại. Vượt biên cuối năm 1978. Định cư ở Pháp từ đầu năm 1979. Làm việc cho hãng đường mía của Côte d’ Ivoire (Phi Châu) 1979-1982. Làm việc cho hãn
Hôm nay là ngày lễ Manman Aloumandia, ngày giỗ tổ tiên của người Haiti vào cuối tháng Chín. Nhà nào cũng chuẩn bị thức ăn truyền thống và hành lễ cảm tạ ông bà đã giữ gìn an toàn cho con cháu, nhất là sau vụ bị hàm oan, họ càng thấm thía sự bình yên hơn. Di dân, hầu hết là tha phương bất đắc dĩ, như phận gái đi lấy chồng, mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu.
Những tia nắng hồng cuối cùng đã tắt trong ánh hoàng hôn chiều tà nhưng bầu trời vẫn trong sáng từ một thứ ánh sáng huyền bí; vẫn chưa có vì tinh tú nào xuất hiện, tuy nhiên màn đêm hôm nay hẳn là một trong những buổi chiều tối đẹp nhất mà cả thế gian này chưa từng bao giờ chứng kiến. Bên phía đại dương, nhìn như có vẻ tối tăm sẫm màu hơn dưới bầu trời rực sáng; bóng tối hoặc ánh màu phản chiếu không còn in trên nền đất liền màu nâu đậm nữa; toàn bộ phần vách đã gần đó giờ chỉ còn là một khối khổng lồ, là một khối đá hoa cương khô khan chênh vênh, nguy hiểm. Con đường mòn gồ ghề trắc trở chạy men theo bờ biển dọc theo những tảng đá, nơi đó những con sóng rì rầm đập vào không ngớt, nơi đây những người dân làng có việc cần hoặc những người chăn cừu đưa bọn cừu hoang dã chưa được thuần thục đã dẫm đạp lên ngàn vạn lần.
Cuốn sách này không ở đâu có, kể cả thư viện quốc hội Hoa Kỳ. Chỉ bạn có và người Việt có. Nhưng bạn không thể đọc hết hơn ngàn trang trong một lần. Chỉ đọc bài nào vừa ý. Những bài khác cứ hẹn tái ngộ, vì, có khi, một hôm bạn sẽ thích một bài mà bạn không thích trước đây. Có thích mới muốn đọc nhưng thích là động lực tâm tình giới hạn trí tuệ.
Trong số khách đến viếng chùa, có người con gái chừng độ tuổi trăng tròn, không son phấn điểm trang, nhưng nàng trông thật diễm lệ. Nàng nâng niu từng cành hoa mẫu đơn. Trong lúc sơ ý nàng vướn gẫy một cành hoa. Người coi vườn bắt trói nàng đòi tiền chuộc tội.
Lần cuối, nghĩa là lần mới nhất, không phải là lần cuối cùng, tôi gặp Trương Vũ tại nhà của Trần Vũ, khi Trương Vũ ghé Quận Cam, trước khi anh bay lên Bắc California để thăm chị ruột của anh, họa sĩ Trương Thị Thịnh. Lúc đó là, có lẽ năm ngoái. Lúc đó, mối giao tình của Trương Vũ và tôi đã trải rộng từ hơn ba thập niên, từ những ngày tôi còn ở Miền Đông Hoa Kỳ. Thời xa xưa, tôi gọi anh bằng tên là anh Sơn, anh Trương Hồng Sơn, khi nhìn anh như một nhà khoa học. Và nhiều năm sau, khi đọc nhiều bài viết của anh trên Văn Học và Hợp Lưu, tôi gọi anh qua bút hiệu là Trương Vũ. Rồi vài năm gần đây là nhìn anh như họa sĩ. Thời gian đã cho anh hiển lộ qua nhiều tài năng, và với rất nhiều tóc bạc. Nhưng nụ cười của Trương Vũ vẫn hiền lành, đôi mắt vẫn tinh anh, cử chỉ và thái độ vẫn luôn là từ tốn, cẩn trọng, dịu dàng.
Trải qua gần bảy thập niên, từ cuối thập niên 1950’ đến nay, trong lãnh vực báo chí và văn chương, tên tuổi Trần Dạ Từ, Nhã Ca nổi bật, quen thuộc với giới báo chí, văn nghệ sỹ và độc giả từ miền Nam Việt Nam ở hải ngoại. Với nhiều bài viết về Trần Dạ Từ trên nhiều khía cạnh trong sự nghiệp và sáng tác nên nếu viết cũng là sự lặp lại, vì vậy trong bài viết nầy trích dẫn bạn văn, bạn tù đã sống gần gũi nhau đã viết về ông, nhất là bạn tù.
DAVEMIN.COM
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.