Dấu ấn văn hóa truyền thống trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Sâm

20/05/202311:03:00(Xem: 711)
Phê bình -- Nhận định Văn học

gs-nguyen-van-sam
GS Nguyễn Văn Sâm.


Nhắc đến GS Nguyễn Văn Sâm, người ta biết ông nhiều trong cương vị một nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu di sản Hán-Nôm và văn học Nam Bộ hơn là nhà văn, nhà thơ. Điều này không phải do sáng tác của ông chưa chín, mà có lẽ chính sự đóng góp quá lớn của ông ở mảng khảo cứu, dịch thuật Hán-Nôm đã làm che khuất những tác phẩm văn chương giá trị của ông.
    Bên cạnh hàng chục công trình biên khảo, dịch thuật, chú giải chữ nghĩa Hán học trong các tác phẩm Nôm, GS Nguyễn Văn Sâm còn là tác giả của hàng trăm truyện ngắn, với nhiều chủ đề, nội dung, không gian văn hóa, thời gian văn hóa khác nhau. Và dù, các tác phẩm của ông có chủ đề, nội dung phong phú nhưng hầu như tất cả cùng chung một giọng văn đậm chất Nam Bộ. Đọc văn của Nguyễn Văn Sâm gợi chúng ta nhớ tới giọng văn của Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng… Và hơn thế nữa, ở đó là một tấm lòng thiết tha với văn hóa cổ truyền, với quê hương, với giống nòi. Như vậy, ngỡ sáng tác và nghiên cứu là hai mảng đối lập trong sự nghiệp văn học của GS Nguyễn Văn Sâm, song thiết nghĩ, cả hai mảng đều có sự liên kết thống nhất, quán thông tôn chỉ, mục đích. Tư tưởng của ông là bảo tồn vốn văn hóa truyền thống của dân tộc.
    Sài Gòn xưa qua những áng văn chương, báo chí thường được thể hiện qua hai mặt: một mặt hoa lệ, pha trộn nhiều nền văn hóa ở trung tâm và một mặt thuần túy văn hóa truyền thống Việt Nam, thường ở những vùng ngoại ô. Và với Nguyễn Văn Sâm, khi cảm thức về Sài Gòn xưa, ông thường chú ý nhiều ở mặt thuần túy tính cách văn hóa Việt Nam, như là một cách lưu giữ nét sinh hoạt truyền thống trong truyện ngắn của mình.
    Trong Biển trời lai láng, ông viết: “Điều dễ thương đối với tôi cũng bình thường thôi.  Thường là những căn nhà ở vùng Bà Chiểu, Thủ Đức, ba gian hai chái, vách bổ kho, mái ngói âm dương, cột danh mộc tròn lên nước bóng lưỡng dựng chững chạc trên từng tảng đá xanh vuông vức, trong nhà đối liễn vẫn còn treo trên những vị trí trang trọng. Hay một cái bàn “ông Thiên” giữa trời thường thấy ở vùng Giồng Ông Tố với hình ảnh người chủ gia đình, lúc vừa chụp tối, bận áo bà ba hai tay chấp nắm nhang xá xá bốn phương trời. Hoặc một cái gáo dừa gắn cán dài úp trên lu nước dựng ngoài mái hiên bắt gặp thường xuyên từ khoảng Cầu Hàn đổ ra đến nửa đường đi Nhà Bè hay từ phía Phú Lâm đổ lên Gò Đen. Có những hình ảnh nhỏ hơn và tầm thường hơn như tiếng võng đưa kẽo kẹt vào lúc giữa trưa trời đứng gió. Võng phải treo phía trên một cái giường tre khập khễnh mới đúng điệu, hòa hợp với cảnh trí xa xa là một bụi tre mà ngọn và tất cả lá đều đương đứng im lìm trầm ngâm ngó trời như thường thấy ở xóm Cầu Tre trước đây…” (Trích Biển trời lai láng).
    Qua cách tả khá chi tiết, với lời văn dung dị, dễ dàng cho người đọc hình dung đến một không gian sinh hoạt Sài Gòn ngoại ô xưa: một nét đẹp hài hòa cả về văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần.
    Xưa Xuân Diệu từng nói: “Ai đem phân chất một mùi hương”! Làn hương, tác phẩm văn chương không ai có thể phân tích tính chất và định lượng hay dở rạch ròi. Viết thế nào là hay, viết thế nào là dở, còn tùy thuộc vào “tầm đón đợi” của người đọc. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, đã là “văn chương từ tảo” thì nhất định phải đẹp, phải thơm, như làn hương mà Xuân Diệu nói, không ai có thể phân chất được, nhưng có thể lan tỏa khắp đến mọi người. Cái đẹp, cái hương thơm trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Sâm mà chúng tôi muốn nói đến ở đây chính là nơi lưu giữ và giáo dục luân lý và đạo đức làm người. Có thể lấy tình yêu cao cả, bao dung của người từ mẫu trong truyện ngắn Chuyện mẹ nhân ái làm ví dụ. Chúng tôi xác tín rằng, chính tình mẹ thiêng liêng trong truyện ngắn này sẽ giúp làm thức tỉnh trái tim của biết bao người con mê lầm: “Ôi nghiệm ra rằng, má ta là Đức Bồ Tát của ta, là sự Từ Bi rót lên đời ta ngay từ lúc mới sơ sanh để ta sống sót. Phật Bà nói chung là má của tất cả mọi người. Má của người nào là Phật Bà mà chỉ có đứa con mới cảm nhận được thôi. Gần đất xa trời tôi mới cảm nghiệm được chơn lý đơn giản nầy. Tiếc quá! Tiếc nhưng biết làm sao hơn, nhân loại sanh ra để va vướng vào những mê lầm muôn thuở mà dầu ta có học xong bài học và được phép mầu làm cho trẻ lại nhiều lần đi nữa thì cũng mắc mê lầm lại y chang như cũ, cũng hờ hững và không thấu được lòng mẹ bao la…..” (Trích Chuyện mẹ nhân ái).
    Tình yêu là vấn đề muôn thuở của nhân loại. Những câu chuyện lịch sử đúng sai của ngàn đời, như Dương Thận nói, “Cũng chỉ rút lại vào câu chuyện phiếm bên chén rượu” (“Cổ kim đa thiểu sự/ Đô phó tiếu đàm trung”). Cái còn đọng lại muôn đời là tình yêu: tình yêu giữa người với người và tình yêu lứa đôi. Trong truyện ngắn Ao Bà Om cạn nước, Nguyễn Văn Sâm đã cổ động cho chúng ta thêm niềm tin yêu vào tình yêu thủy chung, son sắt. Qua hình ảnh ao Bà Om cạn nước, tác giả đã gửi gắm vào đó thông điệp: tình yêu trong mạch đập trái tim con người còn cao hơn cả lời thề, bền bỉ trường cửu hơn cả sự biến thiên của tạo vật. Dù cho người xưa có tin vào sự bất biến của thiên nhiên để lấy đó làm điểm tựa cho lời thề rằng: “Chừng nào cạn nước Ao Vuông/ Nhập chìm Long Trị mới buông lời thề”, thì đến khi cái ao vuông – tức ao Bà Om đó có thật sự cạn đi chăng nữa, thì tình yêu xuất phát từ trái tim vẫn vẹn nguyên, thuần khiết.
    Ngôn ngữ, hay nói cách khác, tiếng nói chính là văn hóa, là máu thịt của một xứ sở, một con người. Không phải ngẫu nhiên mà bất cứ ai cũng xúc động cõi lòng khi đọc câu thơ: “Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi/ Hương âm vô cải mấn mao tồi” (Tuổi trẻ ra đi, già mới về/ Dù râu tóc đã bạc, nhưng giọng quê vẫn không đổi) của Hạ Tri Chương đời Đường! Thiết nghĩ, “giọng quê vẫn không đổi” trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Sâm (dù sau bao nhiêu năm bôn ba nơi xứ người), cũng chính là dụng ý của tác giả. Qua truyện ngắn của mình, Nguyễn Văn Sâm đã lưu trữ, bảo tồn được rất nhiều phương ngữ Nam Bộ. Có thể kể ra như: “chút xíu”, “ngó qua”, “bắt mắt”, “ẩu xị”, “nhón chưn”, “giựt”, v.v… Ngoài việc sử dụng lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Nam Bộ, nhà văn Nguyễn Văn Sâm còn luôn “tìm cách” đan cài những câu phong dao, ca dao Nam Bộ vào trong tác phẩm của mình, như: “Mẹ mong gả thiếp về vườn/ Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh”; “Rực vàng bông bí sau vườn/ Thương em không dám leo tường cũng leo”; “Bông bí vàng lườm trong chùm xanh lá/ Anh ngắm em hoài sợ má em la”;  “Bụng dài như trái bí đao/ Nằm không ăn mãi ruộng sào cũng bay” (trong truyện Ca dao tập tàng); “Bần gie đom đóm đậu sáng ngời/ Lỡ duyên tại bậu trách trời sao đang” (trong truyện Ao Bà Om cạn nước), v.v…
    Có thể nói, GS Nguyễn Văn Sâm là người đa tài và thành công trên nhiều cương vị. Và dù ở cương vị nào, ông cũng nhất quán một mục tiêu là giữ gìn văn hóa truyền thống của dân tộc. Chúng tôi mạn phép nghĩ rằng, yêu nước có nhiều cách, song yêu nước qua việc tìm về cội nguồn dân tộc, giữ gìn và chấn hưng văn hóa truyền thống có lẽ chính là tình yêu nước sâu sắc nhất!
    Các nhà nghiên cứu trước đây khi viết về GS Nguyễn Văn Sâm, đều dành cho ông những mỹ từ trang trọng. Chẳng hạn, TS Hoàng Kim Oanh xác định vị trí đáng kể của ông trong dòng chảy văn chương Nam Bộ qua bài “Nguyễn Văn Sâm và dòng chảy văn chương Nam Kỳ Lục Tỉnh”; TS Nguyễn Văn Trần gọi ông là “Người giữ hồn dân tộc”; Nhà nghiên cứu Phan Tấn Hải tôn ông là “Người giữ hồn của nước”, v.v… Riêng tôi, dù chưa có vinh dự được GS đứng trên bục giảng dạy cho buổi nào, nhưng tôi luôn cung kính gọi ông bằng Thầy – chữ Thầy viết hoa. Bởi tôi học tập ở ông rất nhiều, không chỉ qua những công trình khảo cứu và dịch thuật Hán-Nôm mà còn học tập thái độ làm việc cần mẫn, vô vụ lợi của một nhà nghiên cứu văn hóa truyền thống và một nhà văn đúng nghĩa “nhà văn” – rút ruột nhả tơ ra những áng văn chương nhằm chuyên chở những giá trị văn hóa truyền thống, tô điểm cho đời thêm lấp lánh, ngát hương.
 

– Nguyễn Thị Bích Đào

(Trung tâm Nghiên cứu Quốc học)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chúng ta hàng ngày đọc tin thời sự, dễ dàng nhìn về thế giới Hồi giáo dường như đầy những bạo lực, và nhìn về một quốc gia Iran như một tuyến đầu tua tủa những dàn phóng phi đạn hướng về thế giới tự do. Chúng ta cũng từng thấy các chính phủ Hồi giáo theo các hệ phái khác nhau đã kình nhau, thậm chí trong một nước, như Iraq, cùng từng sinh khởi nội chiến. Tuy nhiên, vẫn có một Hồi giáo khác, một Hồi giáo rất mực hòa bình, một hệ phái ít được báo chí hàng ngày tường thuật chỉ vì họ không gây ra các biến cố hung hăng nào. Đó là Hồi giáo Sufi, một khuynh hướng rất mực thần bí có từ nhiều thế kỷ qua, và là nơi rất mực thơ mộng của Hồi giáo: một nơi của những dòng chữ về vẻ đẹp của sa mạc, của tịch lặng, của yêu thương. Các tác phẩm văn học Sufi ghi trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, có nội dung tư tưởng thần bí của Hồi giáo Sufi. Khuynh hướng này trong tiếng Anh gọi tắt là Sufism
Nhiều năm trước, tôi có tham dự buổi ra mắt tác phẩm Mouring Headband For Hue của nhà văn Nhã Ca tại Toronto. Nghe danh Nhã Ca-Trần Dạ Từ đã lâu từ trong nước mãi đến nay tôi mới gặp cả hai ông bà. Mouring Headband For Hue do giáo sư Sử học, Tiến sĩ Olga Dror thuộc Đại học Texas A&M University chuyển ngữ từ tác phẩm Giải Khăn Sô Cho Huế, tập hồi ký của Nhã Ca in tại Sài Gòn 1969, được Giải Văn Chương Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa năm 1970...
Chủ nhật tuần đó, tôi điện thoại cho nhà thơ Thành Tôn để mời Thành Tôn đi uống cà phê, Thành Tôn cho biết có nhà văn Song Thao từ Canada qua chơi. Tôi nói Thành Tôn mời luôn Song Thao, dù chưa gặp anh lần nào. Đó là lần lần đâu tiên tôi gặp Song Thao tại Quán Phở Quang Trung...
Mấy tháng đầu năm 2023 này sao mà mưa bão liên miên... Làm như thiên nhiên muốn bù đắp cho tình trạng hạn hán kéo dài cả thập niên trước đây ở tiểu bang Cali. Dường như không hẳn thế mà xem ra còn ngược lại: Đợt biến động khí hậu này liên tiếp cũng đã và đang gây nên quá nhiều thiệt hại trên hầu hết các vùng của lãnh thổ Hoa Kỳ, đe dọa nặng nề đến môi trường sống của toàn thể dân cư nữa!
Mùa hè năm 1865, ngay sau khi bắt đầu viết Tội Ác và Hình Phạt (Crime and Punishment), đại văn hào vĩ đại nhất mọi thời đại lâm vào hoàn cảnh tệ đến không thể tệ hơn. Vừa góa vợ thì bị nằm liệt giường vì chứng động kinh, Fyodor Dostoyevsky (11/11/1821 – 9/2/1881) còn ‘rước thêm vạ vào thân.’ Sau khi anh trai qua đời, Dostoyevsky, vốn đã nợ nần chồng chất vì máu đỏ đen, đã tự đứng ra gánh món nợ của tòa soạn của anh trai. Chủ nợ nhanh chóng kéo đến gõ cửa nhà ông, đe dọa sẽ tống ông vào nhà tù của những con nợ. (Một thập niên trước, ông suýt chút nữa đã dính án tử hình vì đọc những cuốn sách bị cấm; thay vào đó ông bị kết án bốn năm khổ sai tại một trại lao động ở Siberia – cho nên viễn cảnh bị tù đày lần nữa khiến ông phát hoảng.)
Phải chăng ‘nhìn thấu tim đen’ là một lối nói hàm ý? Vì sao tim lại đen mà không đỏ? Vì trái tim tối tăm, tính toán, mưu đồ. Nhìn thấu tâm lý là nhìn trái tim cả đen lẫn đỏ, cả xấu lẫn tốt, cả buồn lẫn vui, cả thất vọng lẫn hy vọng. Những người giỏi nhìn ra tâm lý người khác, tâm lý đám đông thường trở thành những bậc cao nhân, hoặc ít nhất là thầy bói.“Giỏi nhìn ra tâm lý” là một cụm từ ngụ ý người có học thuật, có tập luyện, có kinh nghiệm nắm bắt những ý nghĩ âm thầm, những cảm giác tâm tư, và cá tính người đối diện. Học tâm lý mà không có khả năng thông tuệ thì chỉ từ chương, ít dùng được vào việc gì quan trọng, ngoài trừ lãnh lương làm cố vấn ở các trường học, các cơ sở nhân viên, hoặc các nhà tù. Muốn nhìn xuyên tâm lý phải bẩm sinh nhạy cảm, cảm nhận sắc bén, và tấm lòng tốt thường làm khả năng thông cảm, đồng cảm mạnh mẽ, dễ dàng nối kết với tâm tình người khác. Đến cấp bậc cao nhân thì khả năng “nhận thức sáng tạo” là lực chủ yếu để nhìn xuyên tâm hồn.
John Steinbeck sinh tại Salinas, California năm 1902 - một thành phố cách xa bờ biển Thái Bình Dương vài dặm, gần Thung Lũng Salinas màu mỡ và cách San Jose khỏang 70 dặm Anh. Nơi đây đã được dùng làm bối cảnh cho nhiều tiểu thuyết của ông...
Nói dối là một đặc tính trong thời đại hôm nay, đầu thế kỷ 21. Có ba loại người: Nói dối chuyên nghiệp vì có mục đích. Nói dối luôn miệng vì thói quen. Nói dối khi cảm thấy cần thiết hoặc sợ hãi. Nói không đúng sự thật nhưng tưởng mình nói thật, cũng là một cách dối. Nói thật và nói dối trên căn bản đối nghịch nhau, nhưng đôi khi, cả hai là một. Vì hầu như vô tình hay cố ý, ít ai thực sự nói thật. Chẳng phải thích thú khi nhìn rõ tim đen của người đang ba hoa cố thuyết phục mình một chuyện gì có lợi cho anh ta? Chẳng phải tức cười khi biết anh này muốn tán tỉnh, nhưng cố nói những lời nghiêm túc? Lào sao biết được? Hãy tập nhìn xuyên giả dối. Tìm người nói thật và đúng sự thật là chuyện hiếm hoi, trước hết, vì ngày nay, sự thật lớn là gì, không ai biết. Còn sự thật nhỏ, chỉ thật một cách tương đối, mỗi người tin khác nhau.
Đây chỉ là cách nói nhẹ đi, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng, làm khó chịu, xúc phạm. Tôi chỉ muốn nói từ CHẾT...
Sau khi nhổ răng, tôi xin anh nha sĩ trẻ mấy cái răng chết, khá thê thảm, để mang về. Lần trước cũng vậy. Anh tỏ vẻ thông cảm. “Bác giữ làm kỷ niệm?” “Vâng. Chúng nó theo tôi bảy mươi mấy năm rồi. Chiến đấu giỏi lắm. Giữ xác lại để nhớ.” Đúng. Răng kề cận người hơn tình nhân. Ở với người trung thành hơn vợ. Nói cắn là cắn, nói nhai là nhai, nói nhe là nhe, nói ngậm là ngậm. Tuyệt nhiên vâng lời, không cãi cọ gì. Chỉ có già đi, lỏng chân, rồi vĩnh biệt.