Hôm nay,  

Trần Mộng Tú: Nhã Ca và thế giới văn chương*

13/02/202308:57:00(Xem: 2208)

blank
Chương trình buổi ra mắt sách của nhà văn-nhà thơ Nhã Ca


Ngày 10 tháng 2 năm 2023, một buổi ra mắt sách của nhà văn
nhà thơ Nhã Ca được tổ chức tại The Villa, 15081 Beach Blvd, Westminster California. 

Những cuốn sách được trình bày gồm có:


Một Tập Thơ, Từ năm 1964 – In lại 

Gồm 70 bài thơ, có sự đóng góp của các Họa sĩ như: Nghiêu Đề, Duy Thanh, Đằng Giao và Thi sĩ Nguyên Sa


Tập Truyện Ngắn: O Xưa 

(viết ở hải ngoại 300 trang với 13 truyện ngắn)


Hồi Ký: Giải Khăn Sô Cho Huế –Truyện dài – In lại

***


Nhã Ca, một tên tuổi nổi bật về cả hai mặt Văn và Thơ ở Việt Nam trước năm 1975.

blank
Nhà văn Nhã Ca năm 1960.

Tôi đọc chị, bắt đầu là Thơ từ thủa tôi 17,18 tuổi và tôi bằng hoàng vì lời thơ giản dị như nói chuyện, mà không phải người đối mặt nói với người mà là người nói với cái bóng của mình. Đến bây giờ tôi mới nhận ra những câu thơ như thế không bị “già” theo thời gian.


Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài
Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối
Tôi mất thời gian lỡ nụ cười

Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh em cũng tợ sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ

(Thanh Xuân)


Tôi làm con gái
Buồn như lá cây
Chút hồn thơ dại
Xanh xao tháng ngày

Tôi làm con gái
Một lần qua đây
Rồi không trở lại
Ôi mùa xuân này 

(Bài Nhã Ca thứ nhất)


Vườn hoa nào cũng ở trước mặt chúng ta
Mùa xuân nào cũng nở cho ta những bông hồng
Hỡi các chị, chúng ta đều đẹp như mặt trời
Tinh khiết như bình minh
Vì chúng ta làm ra ái tình
Ra hoa lá và sự sống trên trái đất 


Người đàn bà nào cũng đẹp
Mùa xuân và hoa hồng đều nở vì chúng ta
Chúng ta ban phát ái tình
Cho thiên đàng của chúng ta tươi tốt mãi

(Đàn Bà Là Mặt Trời)


Chỉ với ba đoạn thơ ngắn và giản dị này, tôi thấy thơ của Nhã Ca ngập tràn nữ tính, âm điệu và sâu sắc đến dịu dàng. 


Nhã Ca làm thơ trước khi viết văn, chị làm thơ từ Huế và khi vào trong Nam chị mới bắt đầu viết văn cùng anh Trần Dạ Từ cũng là một thi sĩ nổi tiếng với những bài “thơ Tình”.

Không biết hai anh chị yêu thơ của nhau trước rồi mới yêu người hay yêu người rồi mới bật ra thơ. Nhưng phải nói là cả hai người làm thơ này đã là hai tác giả nổi tiếng về “thơ Tình” cho những người đang yêu nhau từ thời 1964 cho đến bây giờ. (Nếu người ta còn thích đọc “thơ Tình” như tôi.)


Hãy nghe một vài đoạn thơ Tình của Trần Dạ Từ: 


Thủa làm thơ yêu em
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng chân thềm
Gió mây lưng bờ dậu

Chiều sương đầy bốn phía
Lòng anh mấy cách xa
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha

Thủa làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố 

(Thủa Làm Thơ Yêu Em)


Cho tôi xin nửa bóng trăng ngoài
Với nửa mùa thu trong mắt ai
Lá rụng bao nhiêu hè phố cũ
Sao nghe lòng rưng rưng nhớ người

Đêm biếc cành soan, thơm giấc mơ
Đầu hiên hoa trắng nở bao giờ
Em mười sáu tuổi trăng mười sáu
Áo lụa phơi buồn sân gió xưa

Tôi dối lòng tôi đêm sắp tàn
Đêm tàn để lạnh giấc mơ em
Để bàn tay gối sầu trên ngực
Và gió thu đầy trong mắt trăng 

(Khi Em 16)


Trần Dạ Từ làm những câu thơ như thế này làm sao mà Nhã Ca không xây xẩm mặt mày, nên đã dựa vào anh trên cuộc hành trình vừa di tản vừa làm Thơ.


Cuộc di tản từ Huế vào Sàigon, vào tù ở VN, sang Thụy Điển rồi sang Mỹ.


Anh chị Trần Dạ Từ và Nhã Ca hiện cư ngụ ở Thụy Điển để hưu dưỡng tuổi già. Cũng như tất cả những người lớn tuổi khác, sức khỏe rất mong manh nhưng anh chị vẫn không ngưng hoạt động trong lãnh vực văn chương.


Được biết buổi ra mắt sách do một nhóm thân hữu, bạn của Hòa Bình, ái nữ của anh chị tổ chức để đón mừng anh chị từ Thụy Điển về Mỹ thăm nhà. Có 1 tập Thơ, tập Truyện ngắn, cuốn Hồi Ký, cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế và một số sách khác. Tất cả là chuyện đã in thành sách. Cuốn O Xưa gồm một số truyện ngắn Nhã Ca viết trong thời gian làm Việt Báo ở California, phát hành lần đầu.


Dưới đây là cuộc trò chuyện của nhà thơnhà văn Nhã Ca với Diễn Đàn Thế Kỷ. 


Trần Mộng Tú: Xin chị cho biết sơ qua về sự nghiệp của chị trong môi trường sáng tác tự do thời Việt Nam Cộng hòa. 

Nhã Ca: Thời nhỏ, tôi học trường Đồng Khánh Huế. Từ đầu năm 1954, tôi tham dự một tờ báo chép tay của một nhóm sinh viên, học sinh có tên là Hồn Xuân với một truyện dài tên “Đường Một Chiều”. Sau hiệp định Geneve ngưng chiến, đất nước chia đôi, tờ “Hồn Xuân” mới ra được 3 số thì tự ý đình bản. Có lẽ truyện dài đầu tay dang dở “Đường Một Chiều” cũng là con đường tôi theo một đời cầm bút. 

Năm 1955 tôi làm thơ học trò ký tên Thu Vân, đăng trên báo nhà trường rồi gửi đăng trên các báo Sài Gòn như tờ Văn Nghệ Tiền Phong, Văn Nghệ Học Sinh, Nguyệt San Văn…Những bài gửi đăng của tôi bắt đầu được nhận tiền nhuận bút. Năm 1958 tôi lấy bút hiệu cho mình là Trần Thy Nhã Ca, chính thức đi vào ngành viết văn với những bài đăng ở báo Hiện Đại của nhà thơ Nguyên Sa. Năm 1960 tôi bỏ Huế vào ở hẳn Sài Gòn, cùng với chồng tôi, Trần Dạ Từ và một số bạn hữu chủ trương tuần báo Ngàn Khơi…(có lẽ tôi phải giới thiệu về người bạn đời, mà nếu không có tình yêu và lập gia đình với Trần Dạ Từ, tôi cũng không có cơ hội trở thành một nhà văn, sống và viết. Vâng, khi thơ văn của tôi được đăng trên các báo ở Sài Gòn, tôi có dịp kết bạn với một số cây viết trẻ. Tôi được các bạn giới thiệu cho quen biết một người bạn trẻ của họ. Bạn ấy tên là Hoài Nam, về sau này là Trần Dạ Từ. Khác với các bạn viết văn, làm thơ tài tử, Trần Dạ Từ là “nhân vật tòa soạn”, người trả lời hộp thư của tòa báo “Văn Nghệ Học Sinh”, lại vừa thầy cò (người sửa bài) kiêm biên tập viên duy nhất của tờ báo bên cạnh Tổng Thư Ký. Rồi bị cả ngàn bài thơ tình tấn công, và sau hai năm viết thư cho nhau, Trần Dạ Từ lần đầu tiên ra Huế, chúng tôi gặp nhau vào buổi tối mùng một Tết Việt Nam năm 1958. Câu chuyện của chúng tôi làm ồn ào thành phố Huế. Bị gia đình ngăn cản, tôi bỏ nhà vào Sài Gòn, ở hẳn trong một trường nội trú. Xong thời nội trú, một năm sau tôi về Huế để làm lành với gia đình, rồi trở lại Sài Gòn, in thiệp cưới. 

Năm 1962, sinh con gái đầu lòng, và cứ thế, liên tiếp thêm 5 người con…)

Năm 1964, tập thơ “Nhã Ca mới” ra đời, bút hiệu chỉ còn Nhã Ca. Cuối năm tập thơ “Nhã Ca mới” đoạt giải thưởng Thi Ca Toàn Quốc. Cũng cùng năm, nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng ấn hành truyện dài đầu tiên “Bóng Tối Thời Con Gái”. Nhà xuất bản An Tiêm phát hành tập truyện “Đêm Dậy Thì”

Cuối năm 1967 tôi về Huế chịu tang cha, vài ngày sau, qua năm Mậu Thân đầu năm 1968 tôi nhân luôn cái tang chung của thành phố Huế. Trở về Sài Gòn, tôi viết “Giải Khăn Sô Cho Huế”.

Sau tháng Tư 1975, cả hai vợ chồng chúng tôi đều bị bắt cầm tù. Trần Dạ Từ bị giam cầm 13 năm. Nhờ Pen và Amnesty cùng chính phủ Thụy Điển can thiệp, mãi đến tháng 9 năm 1988, Trần Dạ Từ mới được ra khỏi nhà tù và gia đình chúng tôi mới rời Việt Nam sang định cư ở Thụy Điển.

Và đúng là chúng tôi đã sống với nghề làm báo, viết văn ở thời Việt Nam Cộng Hòa. Mới đây, trong một buổi sinh hoạt với các sinh viên đại học và một số bạn trẻ ở Úc, ở Canada, ở Việt Nam. Họ có một câu hỏi có phải trước 75 tôi là người phản chiến. Tôi trả lời: Trong hai nền đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa và thời có Mỹ là đồng minh, không phải chỉ có mình tôi phản kháng, mà một số trí thức, cả báo chí, văn nghệ sĩ đều lên tiếng chống đối khi thấy phía người Mỹ hay chính phủ làm những điều trái lòng dân. Nhà báo viết bài chỉ trích, sinh viên, học sinh biểu tình… Nhưng sau năm 75, khi thấy sự độc tài, áp bức, thù hận của cọng sản, tôi mới thấy thời Cộng Hòa con người được quyền không đồng ý, được quyền chống đối, phát biểu mà không một ai bị trả thù, thủ tiêu, bắt bỏ tù. Mới nhận ra rằng cái chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới có tự do, có quyền làm người, có dân chủ.

Năm 1990 tôi sang Mỹ ra mắt cuốn “Hoa Phượng Đừng Đỏ Nữa”. Và Năm 1992, chúng tôi có giấy tờ sống ở Mỹ, và có giấy phép làm Việt Báo tại đây.

Trần Mộng Tú: Những năm tháng mất tự do sáng tác, tù đầy sau 30-4-1975 chị làm cách nào để sống còn và để giữ được cục than văn chương âm ỉ cháy trong tâm mình.

Nhã Ca: Sau 75, vợ chồng đều bị tù đày, gia đình tan tác. Hơn một năm sau tôi được ra khỏi tù, nhưng bị quản thúc và buộc nhiều điều kiện nếu muốn được sống yên. Tôi đã không được yên. Đầu tiên khi ra khỏi tù, tôi nhặt nhạnh những đứa con sống tách rời từ những người thân trong gia đình về. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn, sau khi giấu được nhà văn Mai Thảo và lo cho anh vượt biên thoát, mặc dù hộ nghèo, không đủ ăn, gia đình tôi vẫn bị ghép vào thành phần tư sản và đuổi đi kinh tế mới để đoạt nhà dù nhà mẹ tôi đứng tên. Tôi và các con phải nhiều lần trốn ra khỏi nhà, về miền quê để tránh lùng bắt. 

Tôi không hiểu bằng cách nào mà chúng tôi, gồm một mẹ già, gia đình em gái và các con có thể sống sót được trong suốt một thời gian dài đen tối. Có thể là do lòng tử tế của một số bạn bè, người thân, mà khi tôi kể với vị thầy kính mến của tôi là Hòa Thượng Trí Thủ, Thầy tôi nói: “Đó là ơn nghĩa chúng sanh”. Dù trong hoàn cảnh mà cái chết như đã có lần treo trên sợi tóc, tôi vẫn cố gắng để sống còn. Chồng trong ngục tù, các con bị đuổi học, cuộc sống thiếu thốn, tôi vẫn nuôi hy vọng, bằng đủ cách để thoát ra khỏi hai nhà tù. Tôi đã may mắn gặp những người bạn Thụy Điển, và từ những người bạn này, chồng tôi đã ra khỏi nhà tù và chúng tôi được đến một xứ sở thanh bình. Tại Sài Gòn vào năm 1978 khi nhà báo Tom Hansson của nhật báo Svenka Dagbladet, Thụy Điển gặp và phỏng vấn, đã viết: “Sau năm 1975, Nhã Ca không viết gì nữa. Nhưng bà vẫn nói: Tôi giữ trong lòng. Một ngày nào đó, tôi sẽ viết”.

Và ngày đó cũng đã tới. Tôi đã viết lại.

Trần Mộng Tú: Thời gian sống ở Thụy Điển bao lâu, chị có sáng tác trong thời gian này không?


blank
Gặp gỡ các bạn Thụy Điển vào tháng 5, 2016 tại Stockholm: Marianne Eyre, tổng thu ký Văn Bút Sweden.
Tom Hansson, của Nhật báo Svenka Dagbladet Sweden. Vợ chồng nhà văn Agneta Pleijel. Bà Thomas Von Vegesack.
Anita Klum, Elisabeth Lofgren (Ân Xá Quốc Tế)
blank
Vợ chồng nhà thơ Trần Dạ Từ – Nhà văn, nhà thơ Nhã Ca

 

Nhã Ca: Chúng tôi đã kê lại bàn viết ở Thụy Điển. Tại đây, tôi đã viết xong “Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng”, truyện dài “Hoa Phượng Đừng Đỏ Nữa”, tập truyện “Sài Gòn Cười Một Mình”.

Năm 1990 tôi sang Mỹ ra mắt cuốn truyện dài “Hoa Phượng Đừng Đỏ nữa”.

Và năm 1992, chúng tôi sang định cư tại Mỹ, có giấy phép ra tờ nhật báo Việt Báo tại Little Saigon, California.

Trần Mộng Tú: Tại sao chị không ở lại Thụy Điển mà lại sang Mỹ sinh sống?


Nhã Ca: Chúng tôi quyết định sang California vì nơi đây nhiều đồng hương, bạn bè, có nhiều sinh hoạt văn học nghệ thuật, và cũng có lẽ do cái nghiệp làm báo thôi thúc.

Trần Mộng Tú: Sang Mỹ ngoài làm báo cùng chồng là nhà thơ Trần Dạ Từ chị có tiếp tục làm thơ và viết văn riêng cho mình không?


Nhã Ca: Tôi vẫn tiếp tục viết sách, ra sách và phụ chồng làm báo. Chúng tôi có một số anh chị em cùng làm chung vơi nhau. Sự thành công của chúng tôi không phải là sự thành công của tờ báo, mà là sự gắn bó của anh chị em, họp nhau thành một gia đình Việt Báo. Ngoài ra chương trình “Viết Về Nước Mỹ” cùng giải thưởng hàng năm cho chúng tôi biết nhiều tác giả, nhiều người viết mới, mỗi người một cách về sự hòa nhập của người Việt vào miền đất mới, cuộc sống mới, và chúng tôi lại có thêm một gia đình đông hơn, lớn hơn “Viết Về Nước Mỹ”.

Trần Mộng Tú: Chị có theo dõi tình hình văn học trong nước không?


Nhã Ca: Không biết nhiều.

Trần Mộng Tú: Tác giả, nhà thơ nào trong nước và hải ngoại chị thích đọc nhất?

Nhã Ca: Thích đọc nhiều tác giả, các thể loại.

Trần Mộng Tú: Chị có hy vọng gì ở một nền văn học chân chính tự do cho Việt Nam trong nước không?

Nhã Ca: Hy vọng ở tương lai.

Trần Mộng Tú: Theo chị những tác giả trẻ Việt Nam ở hải ngoại viết văn, làm thơ bằng ngôn ngữ thứ hai có duy trì được cái đẹp, cái tinh chất của văn học Việt Nam không?


Nhã Ca: Tôi không giỏi ngoại ngữ để có thể hiểu nhiều về sách ngoại ngữ. Nhưng đây là những nhà văn trẻ, sống và lớn lên ở Mỹ. Họ có thể duy trì cái đẹp, cái  cái tính chất của văn chương (không phân biệt quốc gia, lãnh thổ). 

Trần Mộng Tú: Chị nghĩ gì về tương lai của nền văn học hải ngoại khi các thế hệ nhà văn cũ dần dần ra đi còn thế hệ thứ hai, thứ ba thì đa số không giỏi tiếng Việt và không quan tâm lắm đến nước Việt nữa? 

Nhã Ca: Tôi không lo lắng về điều này. Tôi cảm thấy mình nghỉ ngơi và lùi lại được rồi vì thấy các nhà văn trẻ ở hải ngoại càng ngày càng nhiều, không những vững vàng mà lối viết, lối suy nghĩ mới mẻ hơn tôi. Mừng lắm!

Trần Mộng Tú: Cuối cùng tại sao chị lại chọn Thụy Điển để sống tuổi già thay vì ở Mỹ?

Nhã Ca: Đúng là sau cùng chúng tôi chọn Thụy Điển để dưỡng già. Chúng tôi mang ơn xứ sở này đã giúp đỡ và cưu mang chúng tôi. Đây là một đất nước thanh bình, đời sống giản dị, thiên nhiên và khí hậu trong sạch, con người tử tế, nhất là yên tĩnh. Người lớn tuổi như chúng tôi cần sự tĩnh lặng.

Diễn Đàn Thế Kỷ xin cám ơn thời giờ của chị và xin chúc anh chị sức khỏe và an bình dù ở bất cứ nơi nào.

Trần Mộng Tú thực hiện. 
* Bài đăng lần đầu trên Diễn Đàn Thế Kỷ ngày 10 tháng 2, 2023.

blank
Nhà văn-nhà thơ Nhã Ca tại Thụy Điển
blank
Gia đình nhà thơ Trần Dạ Từ, nhà văn-nhà thơ Nhã Ca với 5 con gái, 2 con trai



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiều thứ Bảy, 13/4/2024, tại hội trường Nhật báo Người Việt, Quận Cam, đã có một sự kiện văn học đáng chú ý. Đó là buổi Ra Mắt Sách (RMS) của nhà văn Đặng Thơ Thơ với cuốn tiểu thuyết mới nhất của chị, “Ai”...
Nhà văn, nhà thơ Viên Linh (1938-2024) vừa ra đi. Ông tên thật là Nguyễn Nam, sinh ngày 20/1/1938 tại Hà Nam, từ trần ngày 28/3/2024 tại Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi. Bài viết này để đưa tiễn nhà thơ Viên Linh, người mà tôi hân hạnh có nhiều năm thân cận tại Quận Cam, California. Tôi thuộc thế hệ sau nhà thơ Viên Linh rất xa, nên những gì biết và tương tác với nhà thơ chỉ là một góc nhìn. Tôi hân hạnh được gọi nhà thơ Viên Linh là "anh" theo thói quen giao tiếp trong giới văn nghệ, cũng như tôi đã gọi anh Mai Thảo, anh Nhật Tiến, anh Nguyễn Mộng Giác, anh Trần Dạ Từ, chị Nhã Ca... trong những buổi gặp nhau ở Quận Cam. Thật sự họ cách biệt tôi rất nhiều, vì họ đã hiện ra như các ngọn núi huyền thoại của văn học Miền Nam trước 1975. Và tôi đã có cơ duyên làm người bạn trẻ của họ. Và cũng là người viết các bản tin về họ, vì tôi phụ trách mục tin tức trên tờ Việt Báo. Trong các bài viết hay bản tin trước giờ về Viên Linh, đôi khi tôi gọi Viên Linh là anh, đôi khi gọi là ông.
Nhà thơ Viên Linh ra đi trong Tháng Ba, nhưng tang lễ của ông diễn ra trong Tháng Tư. Ừ nhỉ, Tháng Tư! Bây giờ đã bước vào Tháng Tư. Tháng Tư đối với người Việt Nam chứa đầy ký ức thương đau! Đất nước thay ngôi đổi chủ. Hàng hàng lớp lớp người bị đẩy vào các ngục tù khổ sai trên khắp nước. Hàng triệu người bị đuổi khỏi nhà cửa vườn tược để đi tới những “vùng kinh tế mới” xa xôi, lạ hoắc, những nơi “khỉ ho cò gáy.” Hàng trăm ngàn người bỏ nước ra đi, lên núi, xuống biển để tìm lẽ sống trong cái chết bi hùng! Đúng như nhà thơ Viên Linh đã viết, “Tháng tư máu chảy một trời sương tan.”
Cùng một thời điểm làm “Thơ Tình”với Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương, nhưng có một cái gì rất khác với hai thi sĩ này. Thanh Tâm Tuyền mở ra cho chúng ta một trang Thơ Tình rất lạ, rất khác, rất kén độc giả nhưng vô cùng quyến rũ. Nhân kỷ niệm ngày qua đời của Thi Sĩ Thanh Tâm Tuyền, tôi muốn nói về 2 bài Thơ trong số những bài Thơ tôi yêu thích của Thanh Tâm Tuyền...
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả. Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò...
Nhà sư, nhà thơ, nhà thư pháp Thích Nhuận Tâm cho biết sau khi thầy hoàn tất Lớp hướng dẫn thư pháp tại Huntington Beach, California cuối tuần này, Thầy sẽ bay sang Houston, Texas để sẽ hướng dẫn một lớp thư pháp dự kiến sẽ mở ra tại Tịnh Xá An Nhiên ở Houston.
Bài thơ Lời tình buồn được nhạc sĩ Vũ Thành An phổ nhạc năm 1967, khi nhạc sĩ và thi sĩ Chu Trầm Nguyên Minh cùng đang theo học lớp Sĩ quan tại quân trường Lam Sơn, Đồng Đế, đến nay đã trở thành một trong những ca khúc vượt thời gian, được thể hiện qua những giọng ca: Tuấn Ngọc, Khánh Ly, Bằng Kiều…
Trong một bối cảnh đất nước nhiễu nhương, hỗn loạn, nhà văn thường đóng một vai trò quan trọng bằng cách sử dụng ngôn từ của mình để phản ánh, phê bình, truyền cảm hứng và đôi khi thậm chí thách thức hiện trạng. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhà văn phản ứng với những biến động khác nhau, cho dù đó là xã hội, chính trị hay văn hóa...
Tết và Xuân, Xuân và Tết, thời điểm kỳ lạ trong một năm. Vừa trông chờ vừa mong đừng đến. Vừa lưu luyến rét đông vừa háo hức xuân ấm. Vừa khép kín đoàn tụ gia đình vừa chan hoà xôn xao lễ hội. Vừa lặng lẽ hoài niệm chuyện riêng tư vừa hân hoan cùng nhau “nâng chén ta chúc nơi nơi”...
Nhà hiền triết người Ấn Độ Jiddu Krishnamurti (1895-1986) qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 1986 tại Ojai Valley, Quận Ventura, Nam California, Hoa Kỳ, nơi ông đã chọn làm quê hương thứ hai từ năm 1922 cho đến khi ông mất, dù ông không ở đó thường trực. Tính đến tháng 2 năm nay, 2024 đã tròn 38 năm kể từ ngày ông lìa bỏ trần gian. Krishnamurti là một trong những nhà hiền triết có sức ảnh hưởng rất lớn đối với nhân loại trong thế kỷ 20. Cuốn “The First and Last Freedom” của ông được Giáo sư Phạm Công Thiện dịch sang tiếng Việt từ trước năm 1975 ở Sài Gòn với tựa đề “Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng” là một trong những cuốn sách tôi rất yêu thích đọc từ thời còn niên thiếu. Nhân tìm đọc lại một số bài giảng và bài viết của Krishnamurti, tôi tình cờ gặp được bài thơ “Song of the Beloved” (Bài Ca Về Người Yêu), nhưng không thấy ghi ông đã làm từ bao giờ. Có lẽ bài ca này ông làm vào những lúc về nghỉ ngơi tịnh dưỡng ở Ojai, vì bài đó nói lên lòng yêu thích thâm thiết của ông đối với thiên nhiên,