Phạm Duy, Người Đi Cùng Mệnh Nước Ngược Xuôi

27/01/202300:00:00(Xem: 2232)

 Pham-Duy

  

LTS: Trải dài suốt mấy thế hệ, từ thời kháng chiến chống Pháp, cuộc chiến hai mươi năm, và rồi tha hương, tên tuổi Phạm Duy luôn luôn gắn bó với tình tự dân tộc, là một huyền thoại trong khu làng âm nhạc, văn nghệ Việt Nam. Hiếm ai trong chúng ta không cảm thấy lòng dạt dào yêu quê Mẹ Việt Nam hơn khi nghe nhạc và ca từ của Ông. Cả một cuộc đời dài sáng tác, Ông đã để lại cho đời sau một gia sản tinh thần khổng lồ với “ngàn lời ca” mà có lẽ trước và sau Ông khó ai bì kịp.

Đúng ngày này 10 năm trước, ngày 27 tháng 1 năm 2013, người nhạc sĩ nổi trôi cùng mệnh nước 93 năm đã kết thúc cuộc hành trình “trên đường về nơi cõi hết”. Nhân ngày giỗ Ông năm thứ 10, Việt Báo hân hạnh đăng tải dưới đây loạt bài của nhà văn Cung Tích Biền. Loạt bài gồm 4 phần, mỗi phần là cái nhìn ở mỗi chặng đường soi giọi bước chân của người nhạc sĩ.

Nhà văn Cung Tích Biền không viết những lời ca ngợi hay chê bai, việc đó đã có không ít người làm rồi, ở đây ông chỉ viết lên những cảm nhận, suy nghĩ, những tâm tình của riêng ông với người nhạc sĩ.
 
Phần I/Chương một
Một cái nhìn chung về Phạm Duy
 
1
 
Nhạc sĩ Phạm Duy, tên khai sinh Phạm Duy Cẩn, chào đời vào năm 1921, tại Phố Hàng CótHà Nội. Bấy giờ Hà Nội thuộc Xứ Bắc Kỳ, một trong năm xứ của Đông Dương thuộc Pháp [Việt, Miên, Lào]. Riêng nước Việt để dễ cai trị, người Pháp chia làm ba  Xứ – Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, mỗi xứ có ranh giới riêng, thể chế cai trị và guồng máy hành chính rất khác biệt nhau.
 
Thời Pháp thuộc, Nước Annam là tên được gọi thay cho Việt Nam. Người Việt Nam thay vì vietnamien, được gọi là annamite. Đây là một từ miệt thị là dân nô lệ, bị trị. Cụm từ “Dân Mít nhược tiểu. Bọn Mít da vàng”, là cụm từ thường dùng. Hà cớ chi An Nam là tên không đáng gọi? Vì An Nam có từ tên An Nam đô hộ phủ, do vua nhà Đường [Trung Quốc] đặt cho nước ta vào thời bị trị Nhà Đường, từ năm 679.
 
Phạm Duy, qua đời năm 2013, tại Sàigòn, vào thời Việt Nam thống nhất cả hai miền Nam-Bắc, nằm hoàn toàn dưới sự toàn trị của Chính quyền miền Bắc, từ tháng Tư 1975. Sự “Hợp một” này có được phải sau hai mươi năm chiến chinh máu lửa, anh em cùng một nhà thanh toán nhau, một bên bị diệt, mới có một bên được thắng.

Phạm Duy được an táng tại gần Sàigòn. Theo chỗ tôi biết, tâm nguyện của ông, “Quê nhà”, nơi chôn nhau cắt rốn, chính là chốn Kinh Bắc, nơi đó ông sẽ trở lại với nghìn thu, chứ không phải nơi Công viên Nghĩa trang Bình Dương. Điều bí ẩn này chờ một ngày giải mã.
 
Dài dòng vậy, để tỏ tường cái tình huống, tình cảnh, buổi sơ nguyên tiếng khóc chào đời, cho tới hơi thở cuối cùng một đời Nhạc sĩ, trong xay xát, giữa nghiền nát, ra đi, trở lại, của tình thế chính trị, tư tưởng, binh lửa, qua bao nhiêu tang thương dâu bể của sử lịch.
 
Phạm Duy là “Một bản tường trình lịch sử” qua âm nhạc. Một điều thấy rõ. Những chương bản nghịch dị trong cuộc đời Phạm Duy là do sự chọn lựa rõ trắng đen chính nơi ông, một người suốt hành trình đời mình, luôn đồng hành với sự sòng phẳng, tự do chính mình. Không giả nhân giả nghĩa. Cũng từ đây, sức sống trong các nhạc phẩm của ông là một khởi phát chân thực từ đáy lòng, qua cái tâm hồn tinh hoa giàu lòng yêu nước yêu người, là một trời nồng nhiệt lôi cuốn người ngưỡng ngoạn luôn theo cùng.
 
*
 
Cuộc đời Phạm Duy là một cuộc trường kỳ dấn mình, tràng giang “dây nhợ”, trải theo một lịch sử khá đặc biệt của nươc nhà. Chinh chiến lâu dài, nhiều đổi thay thể chế chính trị, những xáo trộn xã hội khốc liệt. Ông là một thiên tài âm nhạc. Dấu ấn và tầm ảnh hưởng của ông, đối với quần chúng, xã hội, là rất đặc biệt so với những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, những nghệ sĩ sáng tác khác, cùng thời.
 
Những tài liệu viết về ông rất nhiều. Ca ngợi ông rất nhiều. Có người viết cả một quyển sách nhiều trăm trang, chỉ nói về Phạm Duy. Người với những bài dài dặc như một công cụ chính trị đánh phá Phạm Duy cũng không ít.
 
Ca ngợi, tới tột cùng. Đánh phá, là triệt để.
 
Nhiều người cùng thành phần Quốc gia với ông, phủi trụi, xóa trắng tất cả thành tựu lớn lao của ông, chỉ để trưng ra một câu chửi bới nặng nề. Lại người yêu mến ông, quý trọng tài năng ông, đã bỏ qua, quên hết “những râu ria mép rìa đời thường nơi ông”, để nhất mực, với lòng thanh thản, con tim nồng nàn, tôn vinh ông. Số người này, có hằng triệu.
 
Phạm Duy, người thường trực đứng dưới nắng mưa thời thế. Là, một người trọn một đời, như một kịch bản hấp dẫn, khá nhiều bí ẩn và huyền ảo, những chương hồi này nghịch ngược, phản trái với chương hồi kia, trong chính một kịch bản, Phạm Duy.
 
*
 
Về gia thế, Phạm Duy sinh trưởng trong một gia đình được gọi là một gia tộc lớn. Nơi đó, những tinh hoa cô đọng, bàng bạc tri thức, sự thông thái là suối nguồn, đủ lập dựng một tài năng lớn Phạm Duy về sau.
 
Thân phụ ông là Phạm Duy Tốn [1883-1924] được xem là một nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học đầu thế kỷ 20. Văn chương Phạm Duy Tốn được coi là những dấu ấn đầu tiên mang ảnh hưởng Tây phương trong văn học Việt Nam. Phạm Duy Tốn là một trong những người đồng thời với Học giả Trần Trọng Kim, Thủ tướng Chính phủ; các bậc khoa bảng, các quan lại đầu triều, các nhà văn như Ngô Tất Tố, Nguyễn văn Tố, Phạm Quỳnh, Nguyễn văn Vĩnh… Từ năm 1920 đến 1923, Phạm Duy Tốn là nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ.
 
Những tác phẩm văn học chính của Phạm Duy Tốn: Bực mình (1914), Sống chết mặc bay (1918), Con người Sở Khanh (1919), Nước đời lắm nỗi (1919). Tiếu lâm quảng ký (3 tập).
 
Người anh cả của Phạm Duy là Phạm Duy Khiêm (1908-1974) là một nhà giáo, nhà văn. Du học Pháp, văn bằng Agrégation de grammaire [Thạc sĩ Ngữ Pháp] năm 1935. 1958 Phạm Duy Khiêm được tặng thưởng Tiến sĩ Danh dự từ Đại học Toulouse, Pháp quốc. 1954 Phạm Duy Khiêm là Bộ trướng Phủ Thủ tướng, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp [1955-1957] thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Phạm Duy Khiêm nhà văn, viết văn bằng tiếng Pháp. Trong đó có Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine được một ít giải thưởng văn chương của nước Pháp.
 
Phạm Duy là người con trai út. Ông còn một người anh, em Phạm Duy Khiêm, là Phạm Duy Nhượng. Phạm Duy Nhượng là một nhạc sĩ, tác giả Tà áo Văn Quân. Ông này chết sớm.
 
*
 
Phạm Duy, ông không sống mỗi mình, riêng cho âm nhạc. Ông là một Mối tình chung, chan hòa cùng một Việt Nam chiến chinh, chia cắt, bao trầm luân lên vực xuống đèo của Đổi thay.

Phạm Duy nhạc sĩ, còn là một nhà văn –  chính mình viết Hồi ký nhiều tập, rất có giá trị. Là, một nhà nghiên cứu âm nhạc, qua những bài nghị luận sắc sảo về dân ca, nhạc truyền thống, nhạc tây phương. Là, một thi sĩ hàng đầu với ngôn ngữ thơ trong lời nhạc. Hàng trăm bản nhạc của ông có lời, là mỗi bài thơ. Mà là thơ hay, ngôn ngữ đẹp.
 
Nhà thơ danh tiếng Trần Dạ Từ đã có cái nhìn: “Nhạc sĩ Phạm Duy là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam thời hiện đại”.
 
*  
 
Ra đời từ 1921 Phạm Duy không là kẻ “bất phùng thời”. Mà, “gặp thời”. Nhưng “gặp thời” này rơi vào một kẻ khác, không là Phạm Duy, hẳn chúng ta không có hàng nghìn bản nhạc, trong đó hàng trăm là những danh tác. “Gặp thời” này là một quà tặng thời thế dành riêng cho Phạm Duy. Phạm Duy thật lòng, làm quà tặng, tặng lại cho đời.
 
Vì sao gọi là gặp/ phùng thời?
 
Người họ Phạm trưởng thành đúng lúc những chuyển xoay thời thế, những bản lề tác động, mang tầm trọng đại của lịch sử, trên đất Việt.
 
– Năm 1930, khi Nguyễn Thái Học cùng 12 Nghĩa sĩ, Đảng viên Quốc Dân Đảng chống Pháp lên đoạn đầu đài, Phạm Duy đã 10 tuổi, tính theo lịch trăng.
 
– Một cao trào văn học Quốc ngữ đã tới hồi phát triển rực rỡ, nhằm vào tuổi biết suy nghĩ và thụ nhận của Phạm Duy. 1933, khởi phóng Phong trào thơ Mới, với những Nhà thơ cự phách tiên phong, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Chế Lan Viên… chấm dứt hệ Đường thi, thơ bát cú [tám câu năm vần] thông thường dùng chữ Hán, hoặc Nôm.
 
Song hành, 1932, bên đường văn chương, có Tự Lực Văn đoàn, với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng… Những nhà văn đáng kính này còn là những nhà cách mạng, với những luận đề chính trị xã hội, khởi xướng những chương trình cải cách cho cuộc tiến hóa dân trí dân sinh, mong thoát khỏi tối tăm một thời bị trị.
 
Hương hoa tư tưởng từ Hổ nhớ Rừng [thơ Thế Lữ] đến các tiểu thuyết Đoạn tuyệt [Nhất Linh] Hồn bướm mơ tiên [Khái Hưng], chưa kể hàng loạt những báo chí bừng sáng từ Nam chí Bắc mang tầm cao giá trị. Hẳn, Phạm Duy không thể không chịu tầm ảnh hưởng lớn lao, khi tuổi gần như trưởng thành.
 
– Dù là học dở dang, nhưng Phạm Duy từng bước vào cửa Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương – École Supérieure des Beaux-Arts de l'Indochine. Trường có từ  năm 1925, đã đào tạo những họa sĩ lừng danh, hàng đầu của nền Hội họa nước nhà, như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngoc Vân, Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Nguyễn Tư Nghiêm… Phạm Duy bỏ học, như Văn Cao, Thế Lữ, Nhất Linh, đã từng.
 
– Tuổi thành niên của Phạm Duy, cũng là thời hai Phong trào vận động Cách mạng không bạo lực vũ trang, hãy còn lưu ảnh hưởng rất sâu đậm trong xã hội bấy giờ. Đó là Phong trào Đông Du do Sào Nam Phan Bội Châu chủ xướng, đưa sinh viên sang nước Nhật du học để mở đường. Phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh, nhiệt liệt hô hào chấn hưng dân trí, dân sinh, dân khí, theo đường Tây hóa. Những phong trào yêu nước, mở nước, mở đường vào với văn minh nhân loại, hãy còn tầm vận động sâu rộng trong quần chúng. Phạm Duy đứng trong gió mùa không thể không từng nghe thấy gió.
 
– Khi Phạm Duy bắt đầu vào đường âm nhạc, nền tân nhạc của nước ta vẫn là “Những ngày đầu, những bước chập chững vào đời”. Non mười năm trước mà thôi, kể từ Phạm Duy sáng tác bản nhạc đầu tiên, 1944, đã có những nhạc sĩ tiên phong mở đường, với Nguyễn văn Tuyên, Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, Lê Thương, Nguyễn văn Thương. Nhiều ca khúc, được xem là những “bản nhạc tây”, đầu tiên của những nhạc sĩ kể trên đã xuất hiện từ những năm 1935, 1936…
 
– Những biến chuyển lịch sử trọng đại trên thế giới có cuộc Đệ nhị Thế chiến. Ở trong nước là – Pháp đi Nhật đến. Cách mạng Mùa Thu 19 tháng Tám, Tuyên ngôn Độc lập, tháng chín. Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật sụp đổ. Vua thứ 13, nhà Vua cuối cùng của Nhà Nguyễn, Bảo Đại [Vĩnh Thụy] từ triều đình Huế tuyên bố thoái vị, trao ấn tín kiếm báu cho Mặt trận Việt Minh. Lúc này Phạm Duy 24 tuổi. Tuổi của mỗi thanh niên có quyết định hành động, và chịu trách nhiệm cho chính mình.
 
– Tháng 10-1945 Pháp đã quay lại Sàigòn. Tháng 12-1946, quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng, tiến chiếm Hà Nội. Chiến tranh Việt Pháp chính thức mở màn. Ba mươi năm tiếp sau, ngưng chiến, hòa bình chia cắt hai miền, nội chiến Bắc-Nam. Tàn cuộc chơi binh lửa, 1975, Phạm Duy đã là 54 tuổi, tuổi của “tri thiên mệnh”.
 
*
 
Rõ ràng, suốt tuổi trưởng thành của Phạm Duy, lịch sử đã bày biện ra một cuộc thế đầy đủ súng gươm để tranh giành, chém giết nhau, để ai đó nhân thời thế, thừa cơ mà làm anh hùng.

Cũng chính nhân thế ấy, thừa mứa những hỉ nộ ái ố, hân hoan trong mùi vị thương đau, cũng là để ai đó trở thành bậc thiên tài trong các lĩnh vực nghệ thuật, văn chương, thi ca, âm nhạc.

Cuộc thế đã mời gọi. Cửa đời rộng mở. Phạm Duy đã có mặt.

Hiện thực đã hiện thể những tơ mành, tế vi, để quần tụ, vầy ra cuộc/ nguồn đại thể. Vui đến muốn điên, buồn mong được chết. Xã hội, một đài hương. Xã hội con người cũng là một bãi rác thải tanh hôi. Lịch sử, Ta có thể dâng lòng thành, tình yêu, cả máu xương này. Lịch sử là nơi dễ dàng cho những bàn chân bùn lội qua. Những bàn tay máu thao túng. Của Mùi động vật rộng tỏa.
 
Cửa mở rộng lắm. Con đường là thênh thang. Phạm Duy bước vào. Một bước có thể nhảy từ sơ nguyên lộn về ngay Hôm nay.
Phạm Duy là ai? Là cỗ máy chế biến vĩ đại. Phân loại cái bãi đời. Thu gom hương đời. Xay xát, những phế liệu, những rác thải có thể tái chế, hay cần thiết phải hủy đi. Phạm Duy, là công cụ, làm sạch lạch nguồn. Khơi trong dòng chảy. Là lửa đốt chiều hôm. Cụm lá khô, những cành mọn. Là tách móc mép rìa sự việc đến trọng tâm đại thể. Là đoàn tụ sum vầy ánh đèn đêm, đến tâm sự bầy chim xa xứ.
 
Phạm Duy, cỗ máy chọn/ chiết lọc từ cái nhân thế hồ đồ, cái lịch sử trập trùng những buồn vui trắc ẩn, để cho ra lời ca tiếng hát.
 
Lịch sử nước tôi. Phạm Duy, người may mắn, được thần linh ban phúc, được trời đất chiết lọc sự thông thái, tinh hoa từ triệu người, để ban phát cho một riêng Ông.
 
Nghìn thu sương bóng. Vài thế kỷ may có một đôi người.
 
(Còn tiếp)
 
– Cung Tích Biền

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nói dối là một đặc tính trong thời đại hôm nay, đầu thế kỷ 21. Có ba loại người: Nói dối chuyên nghiệp vì có mục đích. Nói dối luôn miệng vì thói quen. Nói dối khi cảm thấy cần thiết hoặc sợ hãi. Nói không đúng sự thật nhưng tưởng mình nói thật, cũng là một cách dối. Nói thật và nói dối trên căn bản đối nghịch nhau, nhưng đôi khi, cả hai là một. Vì hầu như vô tình hay cố ý, ít ai thực sự nói thật. Chẳng phải thích thú khi nhìn rõ tim đen của người đang ba hoa cố thuyết phục mình một chuyện gì có lợi cho anh ta? Chẳng phải tức cười khi biết anh này muốn tán tỉnh, nhưng cố nói những lời nghiêm túc? Lào sao biết được? Hãy tập nhìn xuyên giả dối. Tìm người nói thật và đúng sự thật là chuyện hiếm hoi, trước hết, vì ngày nay, sự thật lớn là gì, không ai biết. Còn sự thật nhỏ, chỉ thật một cách tương đối, mỗi người tin khác nhau.
Đây chỉ là cách nói nhẹ đi, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng, làm khó chịu, xúc phạm. Tôi chỉ muốn nói từ CHẾT...
Sau khi nhổ răng, tôi xin anh nha sĩ trẻ mấy cái răng chết, khá thê thảm, để mang về. Lần trước cũng vậy. Anh tỏ vẻ thông cảm. “Bác giữ làm kỷ niệm?” “Vâng. Chúng nó theo tôi bảy mươi mấy năm rồi. Chiến đấu giỏi lắm. Giữ xác lại để nhớ.” Đúng. Răng kề cận người hơn tình nhân. Ở với người trung thành hơn vợ. Nói cắn là cắn, nói nhai là nhai, nói nhe là nhe, nói ngậm là ngậm. Tuyệt nhiên vâng lời, không cãi cọ gì. Chỉ có già đi, lỏng chân, rồi vĩnh biệt.
Gần đây cô cũng hay nghĩ về người chồng xấu số. Đúng ra cô thấy anh trong những giấc mơ. Cô thấy anh và cô đi dạo tại những nơi chốn thơ mộng của vùng đất cố đô nơi cô sinh ra và lớn lên. Những giấc mơ lạ, bởi cô gặp anh và kết hôn với anh khi cô đã vào Nam. Anh là người miền Nam và không hề ra thăm miền đất đó bao giờ. Nhưng trong giấc mơ cô thấy cô và anh thật rõ, khi thì ngồi bên nhau trong ngôi nhà cổ của ba mạ cô ở khu Gia Hội, khi thì thơ thẩn bên bờ sông Hương gần ngôi trường Trung học thân yêu của cô, khi thì đứng dưới bóng mát ngôi nhà thờ uy nghiêm sừng sững trên một ngọn đồi.
Trong buổi tiếp kiến ban biên tập nguyệt san “Phụ nữ Giáo hội Thế giới” của báo Quan sát viên Roma của Toà Thánh, trong tuần qua, dịp kỷ niệm 10 năm thành lập, Đức Thánh Cha khích lệ mọi người và nói: “Phụ nữ có khả năng nói ba ngôn ngữ: lý trí, trái tim và đôi tay”. Có phải Đức Thánh Cha muốn nói: Đối với phụ nữ ba điều này là một: Một người phụ nữ thông minh họ có thể dùng đầu óc mình để thành đạt trong học vấn, trong nghề nghiệp nhưng đồng thời với trí óc thông minh, trái tim mẫn cảm, họ cũng dùng thêm đôi tay của mình để tạo ra những sản phẩm đẹp đẽ và đầy trí tuệ, đầy tình yêu.
Trên Văn Việt ngày 16 tháng 2 vừa qua, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (University of New South Wales, Sydney, Úc) cho biết một số độc giả trên mạng đã hiểu một cách sai lầm rằng câu “Lưỡi lê no máu rửa Tây hồ” là thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Từ chuyện ngộ nhận ấy, nhiều vị viết lời bình luận rằng Vũ Hoàng Chương là một người sắt máu, chẳng khác gì Tố Hữu ngoài Bắc. Cũng qua câu trên, có người cho rằng thơ văn miền Nam thời Việt Nam Cộng Hoà cũng “máu me” lắm chứ chẳng nhân bản, nhân văn gì. Theo Giáo sư Tuấn, “Sự thật có lẽ không phải vậy, mà chỉ là một sự bịa đặt trong một cuốn tiểu thuyết, cuốn Ván Bài Lật Ngửa của tác giả Nguyễn Trương Thiên Lý” (tức nhà văn, nhà biên khảo, Ủy viên Tuyên huấn Trung ương Trần Bạch Đằng). Giáo sư Tuấn cho biết là câu ấy không có trong bài “Lửa từ bi” của Vũ Hoàng Chương, và chụp lại bài thơ “Từ đây” trong tập thơ Hoa Đăng của thi nhân họ Vũ (Sài Gòn : Văn Hữu Á Châu, 1959) để chứng minh rằng câu thơ ghê gớm ấy cũng không có trong đó:
Trong tiểu thuyết HIỆP KHÁCH HÀNH, nhà văn Kim Dung kể chuyện về cuộc phiêu lưu của chàng trai trẻ Thạch Phá Thiên từ năm 12 tuổi, không cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn hữu, không học hành chữ nghĩa, không võ công, không tiền của, mà tình cờ lạc vào giữa chốn võ lâm giang hồ. Đọc xong bộ truyện, tôi tò mò muốn tìm hiểu bài thơ HIỆP KHÁCH HÀNH của thi hào Lý Bạch...
Ngày Xuân Phân là ngày chính giữa của mùa Xuân theo âm lịch và cũng là ngày đầu tiên của mùa Xuân ở Bắc bán cầu theo dương lịch (Vernal Equinox). Trong ngày này, thời gian của ban ngày và ban đêm bằng nhau, nói cách khác là âm dương cân bằng. Nhờ thế vạn vật bắt đầu sinh sôi nảy nở, hoa sẽ dâng hương cho niệm xuân tình. Trong một ngày lập xuân nhiều thế kỷ trước, Sư Huyền Quang [?] ngẫu nhiên bắt gặp hình ảnh một thiếu nữ bên song liền viết bài “Xuân Nhật Tức Sự”. Bài thơ tả người thiếu nữ đang thêu thùa, bỗng chim hoàng oanh líu lo từ lùm tử kinh bên ngoài khiến nàng ngừng mũi kim. Không tiếng lời vì xuân tràn trong ngỏ ý, ngoại cảnh cũng như tâm tư. Nói lời gì cũng bằng thừa khi mạch mới tràn dâng. Nụ đang chúm, không chỉ hoa, nụ còn là môi bung cánh sen, đỏ hường xuân thắm. Bởi vì bây giờ đã sang xuân. Xuân đang thì...
Ly dị, thông thường, bắt đầu bằng vết thương lòng. Những vết thương sâu đậm, máu chảy dai dẳng sẽ từ từ ẩn vào tiềm thức và ảnh hưởng vô thức hoạt động đưa ra những ý nghĩ về khuynh hướng ly hôn. Trong một số trường hợp, vết thương nhẹ, rướm máu sơ sài, nhưng bỗng dưng lớn chuyện, vì tự ái, vì tiếp tục tranh cãi, vì giận quá lỡ lời, vì bạo hành thiếu suy nghĩ. Từ đó, ly nước đã đổ xuống đất, làm sao để hốt lên? Trong một số trường hợp khác, có kẻ muốn ly dị vì nhiều lý do, từ tài chánh cho đến người thứ ba; từ xung đột trong đại gia đình đến thành công hoặc thất bại trên đường đời. Những trường hợp này vô cùng phức tạp, khó có thể giải thích cặn kẽ. Khó phân định lỗi phải. Tuy nhiên, có thể kết luận: Nếu yêu nhau đủ thì khó khăn nào cũng có thể vượt qua. Nhà nhân loại học Paul Bohannan đưa ra lý thuyết về ly dị, trình bày sáu giai đoạn riêng biệt mà một cá nhân sẽ trải qua trên đường ly hôn. Bohannan xác nhận: sáu giai đoạn có thể xảy ra theo thứ tự khác nhau và với cường độ khác nhau
Buổi ra mắt tập thơ “Tháng năm là mộng đang đi” của Nguyễn Thị Khánh Minh đã hoàn tất, nhưng nhiều câu hỏi vẫn lơ lửng sau khi nhà thơ nổi tiếng này nói rằng ấn phẩm này có lẽ là tập thơ cuối cùng của chị. Không có lời giải thích rõ ràng vì sao tập thơ thứ 12 này có thể là ấn phẩm cuối cùng của chị, nhưng buổi ra mắt sách hôm 25/2/2023 tại một quán cà phê giữa Little Saigon đã để lại nhiều kỷ niệm trong những người yêu thơ tham dự.
AZCPOS - Order online directly to POS system
Thầy THÍCH PHÁP HÒA sẽ có buổi thuyết pháp tại chùa Bảo Quang vào thứ bẩy ngày 22 tháng 4 năm 2023, lúc 2 giờ chiều
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.