Hôm nay,  

Nobel Văn Học 2022: Nhà Văn Pháp Annie Ernaux

06/10/202208:20:00(Xem: 2664)

Annie
Tác giả người Pháp Annie Ernaux, 82 tuổi,
giải Nobel Văn học năm 2022. Hình từ Wikipedia.

Tác giả người Pháp Annie Ernaux, 82 tuổi, đã thắng giải Nobel Văn học năm 2022, theo Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố hôm thứ Năm. Viện này ghi nhận Ernaux đã giành được giải thưởng cho "lòng can đảm và sự nhạy bén trong việc  lột tả gốc rễ, sự lạc lõng, những tập hợp hạn chế của ký ức cá nhân" và lưu ý rằng tác giả sẽ được trao giải thưởng vào ngày 10 tháng 12/2022 tại Stockholm.  

Ủy Ban trao giải đã không thể liên lạc với Ernaux qua điện thoại, nhưng tác giả đã nhanh chóng biết được tin tức. Vào chiều thứ Năm, bà đã xuất hiện từ nhà của mình ở ngoại ô Paris trả lời phỏng vấn của các phóng viên. Bà nói rằng bà đã biết về giải thưởng qua đài phát thanh. “Tôi rất hạnh phúc - hãnh diện,” bà nói thêm giữa tiếng ồn ào từ việc xây cất của nhà hàng xóm.


Annie Ernaux (tên khai sinh là Annie Duchesne; sinh ngày 1 tháng 9/1940) là một nhà văn và giáo sư văn học người Pháp. Ernaux lớn lên ở Yvetot ở Normandy. Xuất thân từ tầng lớp lao động, nhưng ba mẹ làm chủ một tiệm café-tạp hóa. Bà học ở Rouen và Bordeaux, dạy ở trường trung học và sau đó, trong 23 năm, làm việc cho một trường đại học đào tạo từ xa của Pháp, cned.

Annie Ernaux bắt đầu sự nghiệp văn học của mình vào năm 1974 với Les Armoires vides (Cleaned Out - Đã xóa sạch), một cuốn tiểu thuyết tự truyện, về kinh nghiệm phá thai của cá nhân bà khi điều này còn bất hợp pháp tại Pháp. Năm 1984, bà thắng giải thưởng Renaudot cho một tác phẩm tự truyện khác của mình là La Place (A Man's Place - Nơi Chốn của Một Người Đàn Ông), một cuốn tự truyện tập trung vào mối quan hệ của bà với thân phụ và những trải nghiệm của bà khi lớn lên ở một thị trấn nhỏ ở Pháp, và tiến trình vào tuổi trưởng thành và xa lìa cội nguồn của ba mẹ. Ngay từ rất sớm trong sự nghiệp, bà đã từ bỏ tiểu thuyết để tập trung vào tự truyện.

Bà vẽ lại những bước tiến trong xã hội của ba mẹ (La place, La honte), tuổi vị thành niên của bà (Ce qu'ils disent ou rien), cuộc hôn nhân của bà (La femme gelée), mối tình nồng nhiệt của bà với một người đàn ông Đông Âu (Passion simple), cuộc phá thai của bà (L'événement), bệnh Alzheimer (Je ne suis pas sortie de ma nuit), cái chết của mẹ (Une femme), và ung thư vú (L'usage de la photo).

A Woman's Story, A Man's Place và Simple Passion đã được vinh danh là Notable Books (Những cuốn sách đáng ghi nhận) theo New York Times, và A Woman's Story đã lọt vào vòng chung kết cho Giải thưởng sách Los Angeles Times Book Prize. Shame được vinh danh là Sách hay nhất Publishers Weekly Best Book năm 1998, I Remain in Darkness được vinh danh là Top Memoir (Hồi ký hàng đầu) của năm 1999 bởi The Washington Post, và The Possession được xếp vào danh sách Mười cuốn sách hay nhất của năm 2008 bởi Tạp chí More Magazine.

Cuốn hồi ký lịch sử Les Années (The Years) năm 2008 của bà được các nhà phê bình Pháp đón nhận nồng nhiệt, được nhiều người coi là tác phẩm đỉnh cao tài năng của bà. Trong cuốn sách này, Ernaux lần đầu tiên viết về bản thân ở ngôi thứ ba (elle, hay "she" trong tiếng Anh), mang đến một cái nhìn sinh động về xã hội Pháp ngay sau Thế chiến 2 cho đến đầu những năm 2000. Đó là câu chuyện xã hội cảm động về một người phụ nữ và về xã hội đang phát triển mà bà đang sống. The Years đã giành được Giải thưởng Françoise-Mauriac năm 2008 của Académie française, Giải thưởng Marguerite Duras năm 2008, Giải French Language Prize năm 2008, Giải thưởng Télégramme Readers Prize năm 2009, Giải Premio Strega Europeo Prize năm 2016. Năm 2018, bà thắng giải Premio Hemingway. Bà đã được đề cử cho Giải International Booker Prize năm 2019 cho cuốn The Years của bà.

Những tác phẩm sau đó của bà viết chi tiết kinh nghiệm bệnh ung thư của mẹ bà và bệnh ung thư của Ernaux, cũng như những sự kiện hạnh phúc hơn, như chuyện về mối tình nồng nhiệt của bà.

Ernaux lần đầu tiên thử viết ở trường đại học, nhưng các nhà xuất bản từ chối cuốn sách của bà vì "quá tham vọng", bà nói với The Times vào năm 2020. Bà đã ngưng viết lách cho đến khi 30 tuổi, khi đã là một bà mẹ hai con, đang làm công việc giáo viên, bà đã viết cuốn  “Cleaned Out” trong bí mật vì chồng bà đã chế nhạo những nỗ lực viết lách ban đầu của bà. “Tôi giả vờ viết luận án tiến sĩ,” Ernaux nói. Sau khi cuốn sách được xuất bản, chồng bà lại phản ứng thậm tệ.  Anh ấy nói với tôi: "Nếu em có khả năng viết một cuốn sách trong bí mật, thì em có khả năng xỏ mũi tôi,” Ernaux nhớ lại. Không lâu sau đó, bà đã viết về cuộc hôn nhân không hạnh phúc của mình.

Ernaux là phụ nữ Pháp đầu tiên đoạt giải Nobel văn học và là người phụ nữ thứ 17 trong số 119 người đoạt giải Nobel văn học. Hơn một chục nhà văn Pháp đã giành được giải thưởng văn học kể từ khi Sully Prudhomme giành được giải thưởng khai mạc vào năm 1901. Người thắng giải văn học gần đây nhất của Pháp trước Ernaux là Patrick Modiano vào năm 2014.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi viết những cảm nhận ở đây căn cứ vào những trích đoạn đã phổ biến, không đặt nó vào bối cảnh toàn diện của cuốn tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”, vì cuốn sách chưa ra đời, nhưng cũng có được cái nhìn về thủ pháp bố cục truyện và văn phong của nhà văn Trịnh Y Thư...
Có cách nào để tìm hòa bình cho vùng Trung Đông? Hãy hình dung về một phép thần nào đó, làm cho quân Israel và quân Hamas buông súng, cùng bước tới bắt tay nhau bùi ngùi, nước mắt ràn rụa, cùng nói rằng tất cả chúng ta hãy sống như một trẻ em mới sinh ra, rằng hãy quên hết tất cả những ngày đau đớn cũ, và cùng trải bản đồ ra vẽ lại, sao cho các thế hệ tương lai không bao giờ nghĩ tới chuyện cầm súng giết nhau nữa. Hình như là bất khả. Đúng là có vẻ bất khả, để có thể sống như một trẻ em mới sinh ra đời. Chỉ trừ, vài thiền sư và nhà thơ. Tôi có một giấc mơ. Vua Trần Nhân Tông bay từ đỉnh núi Yên Tử tới vùng Gaza, ngay nơi cửa khẩu đang mịt mù khói súng. Bên ngoài cửa khẩu là hàng ngàn xe tăng Israel đang chờ tiến vào, bên trong là nhiều đường hầm và hố chiến hào nơi chiến binh Hamas thò mắt nhìn ra để chờ trận chiến cuối đời của họ. Ngay nơi cửa khẩu là một giáo sĩ Đạo Do Thái ngồi đối diện, nói chuyện với một giáo sĩ Đạo Hồi, trước khi họ có thể nhìn thấy đồng bào của họ xông vào nhau.
Tiểu thuyết gia, thi sĩ và kịch tác gia người Na Uy Jon Fosse – người ngày càng thấy số lượng độc giả trong thế giới nói tiếng Anh càng tăng vì những cuốn tiểu thuyết viết về những đề tài tuổi già, cái chết, tình yêu và nghệ thuật – đã được trao Giải Nobel Văn Chương hôm Thứ Năm, 5 tháng 10 năm 2023, “vì những vở kịch và văn xuôi đầy sáng tạo giúp tiếng nói cho những điều không thể nói,” theo bản tin của báo The New York Times cho biết hôm 5 tháng 10 năm 2023. Điều này đã làm cho Fosse trở thành người đầu tiên lãnh giải thưởng Nobel Văn Chương viết bằng tiếng Nynorsk. Ông là người Na Uy thứ tư đoạt giải này và là người đầu tiên kể từ Sigrid Undset trúng giải vào năm 1928. Là tác giả đã xuất bản khoảng 40 vở kịch, cũng như tiểu thuyết, thơ, tiểu luận, sách thiếu nhi và nhiều tác phẩm được dịch sang nhiều thứ tiếng, Fosse đã từ lâu được quý trọng vì ngôn ngữ bao dung, siêu việt và thử nghiệm chính thức của ông.
Kỷ vật, không trừu tượng, là một thứ gì bằng vật chất ghi lại, cưu mang, hoặc ẩn tượng một kỷ niệm nào đó. Loại kỷ niệm có động lực gợi lại những vui buồn, thương tiếc, nhớ nhung; có khả năng làm nhếch một nụ cười hoặc làm mờ khóe mắt. Có những kỷ vật dù đã mất nhưng không quên. Mỗi đời người càng sống lâu, càng có nhiều kỷ vật. Điều này cất vào kho tàng quá khứ, có hay không, nhiều hạnh phúc đã qua mà mùi hương không bao giờ xao lãng.
Có một tương đồng giữa Tổng Thống Hoa Kỳ Joe Biden và Tổng Bí Thư CSVN Nguyễn Phú Trọng. Đó là đôi khi họ làm thơ. Nhưng dị biệt lớn giữa hai nhà thơ tài tử này chính là chủ đề, là nguồn cảm hứng để làm thơ. Nguyễn Phú Trọng làm thơ ca ngợi ông Hồ Chí Minh và những chủ đề tương tự, thí dụ, một lần ông Trọng làm ca ngợi khách sạn Mường Thanh Grand Phương Đông. Nhưng Tổng Thống Biden chỉ làm thơ tình, và chỉ tặng vợ thôi. Chúng ta không nói rằng thơ hay, hay dở, chỉ muốn nói rằng trong tâm hồn của Biden là hình ảnh thướt tha của Đệ nhất phu nhân Jill Biden. Và trong tâm hồn của ông Trọng là những khối xi măng có hình Lăng Ông Hồ, và rồi hình khách sạn Mường Thanh. Không hề gì. Thơ vẫn là thơ (giả định như thế). Bây giờ thì hai nhà thơ Joe Biden và Nguyễn Phú Trọng đã gặp nhau.
Truyện Thạch Sanh Lý Thông lưu truyền trong dân gian dưới hình thức chuyện kể truyền miệng chắc có đã lâu, phải hiện hữu trước khi ông Dương Minh Đức đưa bản văn sáng tác của mình sang bên Quảng Đông khắc ván ‒ cũng như đã từng đưa vài chục tác phẩm khác của nhóm, nhờ đó miền Nam Kỳ Lục tỉnh có được một số tác phẩm Nôm đáng kể mà người nghiên cứu Nôm thường gọi là Nôm Phật Trấn...
Sau tháng Tư năm 1975, tất cả những tác phẩm truyện ngắn truyện dài của các tác giả Việt Nam Cộng Hòa [1954-1975] đều bị chế độ mới, Xã hội chủ nghĩa cấm in ấn, phổ biến, lưu trữ. Tên tuổi tác giả, tác phẩm được công bố rõ ràng. Việc tưởng xong, là quá khứ. Bỗng dưng 32 năm sau năm, 2007, từ Hà Nội một nhà văn có chức quyền, có Đảng tịch, ông Phạm Xuân Nguyên, vận động, hô hào sẽ in lại một số tác phẩm Miền Nam, đang bị cấm. Trước tiên là 4 [bốn] tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu. Đó là các tác phẩm Đôi mắt trên trời, Cũng đành, Tiếng sáo người em út và Nhan sắc. Khi sách được phát hành có ngay phản ứng. Rất nhiều bài báo lần lượt xuất hiện liên tiếp trên các báo tại Sàigòn “đánh/ đập” ra trò. Hóa ra, những người vận động in lại sách là các cán bộ văn hóa từ Hà Nội. Hung hăng đánh phá là những cây bút… Sàigòn. Trong đó có Vũ Hạnh, một cán bộ nằm vùng, người trước kia bị chế độ Miền Nam bắt giam tù, Dương Nghiễm Mậu là một trong số các nhà văn, ký đơn xin ân xá cho Vũ Hạnh.
Kể lạ, ở “nước non mình”, bút hiệu của các nhà sáng tác qua nhiều lãnh vực văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa, nghiên cứu phê bình, truyền hình, báo chí, diễn viên, có bút hiệu/danh, là Sơn [không kể Sơn ở đầu như Sơn Nam, Sơn Tùng, Sơn Vương…] là đông vô số kể. Thiếu Sơn, Triều Sơn, Trúc Sơn, Phạm văn Sơn, Trịnh Công Sơn, Mai Sơn, Phong Sơn, Vân Sơn, Trần văn Sơn, Linh Sơn, Trần Áng Sơn, Từ Sơn, Vinh Sơn, Tiến Sơn, Cao Sơn, Ngô văn Sơn, Lê Thái Sơn, Nguyễn Lê La Sơn, Lê Tây Sơn. Chu Sơn, Tùng Sơn, Hoài Sơn, Đào Bá Sơn…Trong đó hai ông Sơn thi sĩ là….đáng yêu nhất. Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Bắc Sơn. Đáng yêu, vì hai ông này đều có tài, đều có cái lạ trong thơ, lẫn ngất ngư, ngất ngưỡng, ngất ngây trong đời sống.
Bài phỏng vấn dưới đây do Christian Salmon thực hiện, đăng trên quý san văn học The Paris Review năm 1983 và sau đó xuất hiện trong tập văn luận “Milan Kundera Nghệ thuật tiểu thuyết” xuất bản năm 1986...
Tiểu thuyết, theo Kundera, thể hiện trong mình “tinh thần của phức tạp”, “hiền minh của hoài nghi”, nó không đi tìm các câu trả lời mà đặt ra các câu hỏi, nó nghiên cứu “không phải hiện thực mà hiện sinh”, nghiên cứu chính ngay bản chất sự tồn tại của con người...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.