Hôm nay,  

Rừng Phong Thu Đã Nhuộm Màu Quan San*

07/11/202111:46:00(Xem: 3573)
Rung Thu Phong
Rừng phong thu. (nguồn: www.pixabay.com)



Màu quan san là màu gì? Bảng vẽ của họa sĩ không thấy nói đến, bảng màu mẫu cũng chưa từng nghe qua.  Ây vậy mà cái màu quan san nó tha thiết trong tâm hồn người, màu này đâu phải mới đây, đã hơn ba trăm năm rồi, mà nào phải từ khi cụ Nguyễn Du chế ra màu quan san thì cái màu quan san mới da diết như thế! Cả ngàn năm trước cái màu gây nhớ thương, gây u hoài trong lòng người đã có. Cái màu quan san tê tái khi Chiêu Quân sang Hồ, khi Tô Vũ ngoài biên ải ngóng về cố quận, khi Nguyễn Du đi sứ bên Tàu… 

Rừng phong đã nhuộm màu hay lòng người nhuốm màu thu? Những kẻ sống ở  vùng ngoại phương không ít thì nhiều, không cạn thì sâu ắt biết. Cái màu rừng phong đẹp lắm, rực rỡ lắm, đất trời như bừng lên, ánh nắng như lồng vào trong phiến lá. Nói muôn hồng nghìn tía không còn là ước lệ, không phải là tỷ dụ nữa mà hoàn toàn thật sự như thế. Hồng, đỏ, cam, vàng, nâu, tím, trắng… cứ thế mà lá phô diễn trước khi về với đất mẹ. Những chiếc lá sắc màu ấy có thật là lá chăng? Hay cũng chỉ là sự hội tụ hợp thành của ánh nắng mặt trời, hơi thở của gió, nước mát thiên nhiên, chất cứng từ đất mẹ. Những chiếc lá quanh năm xanh biếc, cung cấp dưỡng khí cho người và muôn loại hữu tình. Những chiếc lá reo ca với gió ngàn, chắn bão giông, che sức nóng và bức xạ của mặt trời… Khi lá đã hết trách vụ của mình lá vẫn còn hiến dâng cái đẹp lần cuối trước khi trở về đất mẹ. Lá sẽ hóa thành mùn đen và mùa sau lại tái diễn, cái vòng quay miên viễn kia vốn chẳng biết bắt đầu tự bao giờ và cũng chẳng ai biết khi nào sẽ kết thúc.
 

Thành Ất Lăng mùa này đẹp lắm, tuy không bằng núi rừng Colorado, New Hampshire, Virgina, Vermont… Nhưng vẫn đủ để quyến rũ những tâm hồn đa cảm. Ngày hôm qua nội thành Ất Lăng đã tưng bừng màu sắc cờ hoa mừng đội Braves vô địch quốc gia, một niềm hãnh diện của cư dân, dù là da trắng, da đen, da nâu, da vàng… Cuộc diễu hành kéo dài trên con đường Peace Tree, muôn ngàn người vẫy cờ hò reo. Những cây phong, cây bạch quả thả những chiếc lá vàng như rắc kim tuyến mừng các cầu thủ và cả người hâm mộ. Môn bóng cà na này là quốc hồn quốc túy của xứ Cờ Hoa, nó là đặc trưng của người Mỹ. Nói đến Mỹ thì lập tức nghĩ ngay đến bóng cà na, bánh hamburger và Coca Cola. Thành Ất Lăng là quê hương, là đại bản doanh của Coca cola, của đội Braves. Hóa ra thành Ất Lăng chiếm đến hai biểu tượng của xứ sở này rồi! 

Thành Ất Lăng vốn ở miệt đông nam nên nắng nhiều hơn mưa, nóng nhiều hơn lạnh, trời xanh quanh năm, tuyết trắng chỉ đỏng đảnh như gái dậy thì, chợt có chợt không. Vì ở gần miệt cuối nên nàng thu cũng đến chậm hơn so với những bang trên hướng bắc, nếu những bang ấy đã vàng từ hai ba tuần trước thì giờ này Ất Lăng mới trổ màu. Mùa này đi vào rừng cứ như bơi giữa biển sắc màu, duy chỉ có bọn thông, tùng, bách thì xanh quanh năm. Đẹp nhất, rực rỡ nhất có lẽ họ nhà phong và họ cây bạch quả. Bọn chúng nuốt lấy ánh mặt trời để rồi tỏa ra từ phiến lá. Tựa như bọn con nít lấy giấy kiếng màu bịt cái đèn pin. Nằm dưới gốc phong hay gốc cây bạch quả cứ ngỡ mình về với cổ tích xa xưa, giá mà chết ngay dưới hàng phong hay dưới gốc bạch quả thì diễm tuyệt biết bao, giá mà trút hơi thở cuối trên thảm lá vàng này thì còn gì thú vị bằng, nếu có thể đổi hơi thở để trở thành chiếc lá trong vô số chiếc lá kia thì vui biết nhường nào. Nằm dưới gốc phong lá phủ trên thân xác, đời nhẹ và đẹp biết bao. Làm thân con người trong cõi nhân gian này nhọc nhằn lắm, phải vất vả mưu sinh, phải chịu ràng buộc trong những mối quan hệ thân sơ, phải  gánh lấy hậu quả của chính mình trong quá khứ và bao nhiêu thứ phải khác nữa. Bởi vậy gã du tử ước chi hóa làm chiếc lá ngay ở cái khoảnh khắc này. Mình hóa thành chiếc lá, mình sẽ vui như lá, sẽ thở như gió, sẽ ấm như nắng trời, sẽ thanh khiết như nước và sẽ vững chãi như đất.  Gã du tử hoàn toàn không hối tiếc, sẵn sàng đổi thân để làm chiếc lá kia.

Mùa này những gã du tử đi lang thang dưới tán lá đầy màu sắc cứ như những kẻ đi tìm dĩ vãng. Có đôi khi trên những cung đường mòn cứ ngỡ lạc vào xứ sở “Bạch tuyết và bảy chú lùn”. Bạch Tuyết không thấy, những chú lùn cũng không làm sao nhận ra. Cả khối người mắt xanh da trắng thì biết ai là Bạch Tuyết đây? Thiên hạ cũng toàn là lùn cả thì làm sao phân biệt đâu là bảy chú lùn? Những người lớn, những bậc đại nhân thì hiếm gặp và chẳng mấy khi xuất hiện giữa đời. Bạch Tuyết không có nhưng những người bạn của Bạch Tuyết thì hiện diện ở nơi này, bọn nai, sóc, chim chóc...nhộn nhạo cả khu rừng. 

Mùa này trời đất phong quang lắm, có lẽ lá cây rụng dần nên thưa thớt, nhờ thế mà ánh sáng chiếu khắp mọi nơi. Phong quang vì sắc màu của lá làm rạng rỡ đất trời. Những chiếc lá kia mặc kệ sự đời, mặc cho ai ăn thịt bò dát vàng, mặc cho dân đen thiếu cơm áo, mặc cho chữ nghĩa nhì nhằng, mặc cho lòng người đa đoan… Những chiếc lá hạnh phúc biết bao, đem chuyện kẻ quyền thế ăn bẩn, ăn bạo vào chuyện những chiếc lá kia cũng là bất đắc dĩ mà thôi! Dù biết rằng nó sẽ làm ô uế chiếc lá, làm lấm lem sắc màu của thu, nhưng không thể không nói. Gã du tử chưa phải là chiếc lá, vẫn còn mang thân phận con người, vẫn còn là con dân một nước, nước dẫu xa, nhà dẫu cách nhưng lòng con dân không thể không hướng về. Muôn triệu người dân đang cơn dịch bệnh, chết chóc, khổ đau, túng thiếu, đói kém...nhưng quan quyền thì trơ như đá, dối như cuội, leo lẻo như vẹt học nói. Tiền một bữa ăn của quan có thể đủ gạo cho ngàn gia đình, một chầu nhậu của quan có thể đủ học phí cho ngàn em học sinh, một cuộc du hí của quan có thể đủ tiền chữa bệnh cho biết bao người. Quan vơ vét không chừa thứ gì, miễn nó phải thành tiền trong túi. Quan ăn cả đất đai, tiền bạc, tài sản tư lẫn công, ăn cả khí huyết, đờm dãi của những con bệnh. Ăn không chừa thứ gì, tích cóp không bao giờ biết đủ, dùng mọi thủ đoạn với nước với dân.

Những chiếc lá mùa này đẹp lắm, nhưng chưa hẳn đẹp bằng những tấm lòng tận tụy hy sinh vì đồng loại. Cây phong, cây bạch quả có vững chãi cũng không bằng sự trụ vững của những người lên tiếng vì nước vì dân. Chỉ có một điều là họ cô đơn quá, họ tranh đấu cho chính đồng loại nhưng đồng loại lại thờ ơ vô cảm hay quá nhút nhát e dè. Ngục tù, hình án, côn đồ… cứ như bầy quạ đen túa ra che chắn mặt trời. Ai đó bảo rằng, nghệ thuật không liên can đến chính trị, cái đẹp tách rời với chính trị. Thế những con người lên tiếng vì tự do không phải là cái đẹp sao? Những người tranh đấu vì đồng loại, vì người dân không phải cái tuyệt vời sao? Nếu nói như thế có khác gì con đà điểu rúc đầu vào trong  cát? Cái đẹp của thiên nhiên dễ nhìn, dễ thấy, dễ rung cảm. Cái đẹp của tâm hồn khó mà nhận ra, cái đẹp của lương tri càng khó thấy, cái đẹp của vô úy cũng không dễ được nhìn nhận. Tuy nhiên những cái đẹp của nhân cách con người mới đi sâu vào lòng người, mới tồn tại theo tháng năm, mới đi vào sử sách. Nghệ thuật mà xa rời đời sống, thì nó giống như món đồ chưng trong tủ kiếng chẳng ích gì cho đời. Nghệ thuật phải gắn liền với đời sống, phải phục vụ đời sống thì ấy mới chính là nghệ thuật. 

Lý thuyết thì mùa thu đã đến cả hai tháng rồi, nhưng thực tế thì thành Ất Lăng chỉ mới vào thu một tuần này mà thôi, trong vòng ba tuần tới là cao điểm của sắc màu. Thiên nhiên hóa một cõi địa đàng, lá không còn lãng đãng thả trong gió mà là từng cụm, từng vồng, từng mảng lá đổ xạc xào trong gió thu. Bầy vịt trời, chim trời đang hối hả bay về vùng nắng ấm. Có lẽ kỳ diệu nhất là những đàn bướm Monarch. Chúng cũng rực rỡ muôn màu như lá thu, chúng còn mong manh hơn cả chiếc lá, ấy vậy mà hàng năm họ nhà chúng bay di cư cả mười ngàn dặm, trên đường thiên di ấy, có vô số bướm bỏ lại xác thân với lá cỏ và cũng có vô số bướm con được sinh ra. Mười ngàn dặm là một khoảng cách vô cùng nghiệt ngã với cả con người chứ đừng nói chi là những cánh bướm mong manh kia. Thế mà bao đời nay chúng vẫn cứ đi về như thế! Thật đúng như nhạc sĩ họ Trịnh đã ca: ”Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.” Con người mệt thật, mệt đến rũ rượi ra, mệt tưởng chừng như bỏ cuộc. Ấy vậy mà đàn bướm Monarch kia vẫn đi về hàng năm, vẫn đẹp, vẫn mong manh đến nao lòng. Cái đẹp nào cũng mong manh, càng đẹp lại càng mong manh, những tưởng mong manh sẽ bị bóp bể, sẽ bị bẻ gãy, sẽ đập nát tan bởi những cái thô tháo, cường bạo, dã man…

Nhưng không, Cái đẹp, cái mong manh vẫn tồn tại và đã tồn tại song song với con người. Những con người bị đày đọa trong ngục tối, bị hành hạ, bị bức bách kia vẫn không hề run sợ, không khuất phục tí nào. Những con người đáng tôn vinh ấy vẫn âm thầm như đất, như mùn để cho đời những chiếc lá mùa sau.

Mùa thu đã đến, đang đến và sẽ đến. Những chiếc lá đã lên màu, đang lên màu và sẽ lên màu. Những gã du tử vụng về giữa đường đời không biết đi về đâu? Cứ như những chiếc lá thả mình trong gió, những chiếc lá tưởng chừng vô tích sự biết đâu nguồn cội đi về. Lá vẫn sống trọn đời lá, lá cháy hết mình lần cuối trước khi về ngủ yên trong đất mẹ. Những gã du tử ước mình là chiếc lá, ắt cũng sẽ có một ngày hóa thành chiếc lá thông qua một nắm mùn dưỡng chất. Một chiếc lá có cả nắng trời, hơi thở trong lành của gió, thanh khiết của nước và mùn đen từ đất mẹ. Những gã du tử còn mang thân phận con người nhưng hồn hòa cùng sắc màu lá, bay cùng lá khắp cả đất trời.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 11/21

 

* Truyện Kiều – Nguyễn Du

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiều thứ Bảy, 13/4/2024, tại hội trường Nhật báo Người Việt, Quận Cam, đã có một sự kiện văn học đáng chú ý. Đó là buổi Ra Mắt Sách (RMS) của nhà văn Đặng Thơ Thơ với cuốn tiểu thuyết mới nhất của chị, “Ai”...
Nhà văn, nhà thơ Viên Linh (1938-2024) vừa ra đi. Ông tên thật là Nguyễn Nam, sinh ngày 20/1/1938 tại Hà Nam, từ trần ngày 28/3/2024 tại Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi. Bài viết này để đưa tiễn nhà thơ Viên Linh, người mà tôi hân hạnh có nhiều năm thân cận tại Quận Cam, California. Tôi thuộc thế hệ sau nhà thơ Viên Linh rất xa, nên những gì biết và tương tác với nhà thơ chỉ là một góc nhìn. Tôi hân hạnh được gọi nhà thơ Viên Linh là "anh" theo thói quen giao tiếp trong giới văn nghệ, cũng như tôi đã gọi anh Mai Thảo, anh Nhật Tiến, anh Nguyễn Mộng Giác, anh Trần Dạ Từ, chị Nhã Ca... trong những buổi gặp nhau ở Quận Cam. Thật sự họ cách biệt tôi rất nhiều, vì họ đã hiện ra như các ngọn núi huyền thoại của văn học Miền Nam trước 1975. Và tôi đã có cơ duyên làm người bạn trẻ của họ. Và cũng là người viết các bản tin về họ, vì tôi phụ trách mục tin tức trên tờ Việt Báo. Trong các bài viết hay bản tin trước giờ về Viên Linh, đôi khi tôi gọi Viên Linh là anh, đôi khi gọi là ông.
Nhà thơ Viên Linh ra đi trong Tháng Ba, nhưng tang lễ của ông diễn ra trong Tháng Tư. Ừ nhỉ, Tháng Tư! Bây giờ đã bước vào Tháng Tư. Tháng Tư đối với người Việt Nam chứa đầy ký ức thương đau! Đất nước thay ngôi đổi chủ. Hàng hàng lớp lớp người bị đẩy vào các ngục tù khổ sai trên khắp nước. Hàng triệu người bị đuổi khỏi nhà cửa vườn tược để đi tới những “vùng kinh tế mới” xa xôi, lạ hoắc, những nơi “khỉ ho cò gáy.” Hàng trăm ngàn người bỏ nước ra đi, lên núi, xuống biển để tìm lẽ sống trong cái chết bi hùng! Đúng như nhà thơ Viên Linh đã viết, “Tháng tư máu chảy một trời sương tan.”
Cùng một thời điểm làm “Thơ Tình”với Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương, nhưng có một cái gì rất khác với hai thi sĩ này. Thanh Tâm Tuyền mở ra cho chúng ta một trang Thơ Tình rất lạ, rất khác, rất kén độc giả nhưng vô cùng quyến rũ. Nhân kỷ niệm ngày qua đời của Thi Sĩ Thanh Tâm Tuyền, tôi muốn nói về 2 bài Thơ trong số những bài Thơ tôi yêu thích của Thanh Tâm Tuyền...
Vòng Tay Học Trò là tác phẩm tiêu biểu của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa năm 1964. Tác phẩm được công chúng nồng nhiệt đón nhận và theo đó cũng hứng nhiều luồng ý kiến khác nhau, càng làm cho tác phẩm nổi tiếng hơn. Chính vì vậy, từ khi xuất hiện, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, làm xôn xao dư luận trong giới chuyên môn và công chúng độc giả. Hàng chục năm sau, lúc chúng tôi còn nhỏ, chưa đọc tác phẩm đã thuộc tựa đề vì Vòng Tay Học Trò gắn liền với tên tuổi tác giả. Nói đến Nguyễn Thị Hoàng người ta nhớ đến Vòng Tay Học Trò...
Nhà sư, nhà thơ, nhà thư pháp Thích Nhuận Tâm cho biết sau khi thầy hoàn tất Lớp hướng dẫn thư pháp tại Huntington Beach, California cuối tuần này, Thầy sẽ bay sang Houston, Texas để sẽ hướng dẫn một lớp thư pháp dự kiến sẽ mở ra tại Tịnh Xá An Nhiên ở Houston.
Bài thơ Lời tình buồn được nhạc sĩ Vũ Thành An phổ nhạc năm 1967, khi nhạc sĩ và thi sĩ Chu Trầm Nguyên Minh cùng đang theo học lớp Sĩ quan tại quân trường Lam Sơn, Đồng Đế, đến nay đã trở thành một trong những ca khúc vượt thời gian, được thể hiện qua những giọng ca: Tuấn Ngọc, Khánh Ly, Bằng Kiều…
Trong một bối cảnh đất nước nhiễu nhương, hỗn loạn, nhà văn thường đóng một vai trò quan trọng bằng cách sử dụng ngôn từ của mình để phản ánh, phê bình, truyền cảm hứng và đôi khi thậm chí thách thức hiện trạng. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhà văn phản ứng với những biến động khác nhau, cho dù đó là xã hội, chính trị hay văn hóa...
Tết và Xuân, Xuân và Tết, thời điểm kỳ lạ trong một năm. Vừa trông chờ vừa mong đừng đến. Vừa lưu luyến rét đông vừa háo hức xuân ấm. Vừa khép kín đoàn tụ gia đình vừa chan hoà xôn xao lễ hội. Vừa lặng lẽ hoài niệm chuyện riêng tư vừa hân hoan cùng nhau “nâng chén ta chúc nơi nơi”...
Nhà hiền triết người Ấn Độ Jiddu Krishnamurti (1895-1986) qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 1986 tại Ojai Valley, Quận Ventura, Nam California, Hoa Kỳ, nơi ông đã chọn làm quê hương thứ hai từ năm 1922 cho đến khi ông mất, dù ông không ở đó thường trực. Tính đến tháng 2 năm nay, 2024 đã tròn 38 năm kể từ ngày ông lìa bỏ trần gian. Krishnamurti là một trong những nhà hiền triết có sức ảnh hưởng rất lớn đối với nhân loại trong thế kỷ 20. Cuốn “The First and Last Freedom” của ông được Giáo sư Phạm Công Thiện dịch sang tiếng Việt từ trước năm 1975 ở Sài Gòn với tựa đề “Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng” là một trong những cuốn sách tôi rất yêu thích đọc từ thời còn niên thiếu. Nhân tìm đọc lại một số bài giảng và bài viết của Krishnamurti, tôi tình cờ gặp được bài thơ “Song of the Beloved” (Bài Ca Về Người Yêu), nhưng không thấy ghi ông đã làm từ bao giờ. Có lẽ bài ca này ông làm vào những lúc về nghỉ ngơi tịnh dưỡng ở Ojai, vì bài đó nói lên lòng yêu thích thâm thiết của ông đối với thiên nhiên,