Hôm nay,  

Heo Rừng Có Trí Khôn và Tình Thương

17/09/202100:10:00(Xem: 2263)

1-lang-thang_nai_2-heo-rung
Hình ảnh hiền lành trong rừng: nai và 2 heo rừng đang lang thang. (Pixabay.com)

Trí tuệ và từ bi có phải chỉ riêng nhân loại mới có? Hay là, loài vật cũng có trí tuệ và từ bi, nhưng ở mức sơ khai hơn? Cuộc nghiên cứu mới đây về heo rừng cho thấy những bất ngờ về mức độ cao của không ngoan và tình thương nơi một trường hợp khảo sát.

Cuộc nghiên cứu của các nhà khoa học tại Czech University of Life Sciences Prague cho thấy lần đầu tiên ghi lại đầy đủ hình ảnh về trường hợp được ghi lại trên báo Business Insider hôm 5/9/2021 qua bản tin nhan đề “A family of wild boars organized a cage breakout of 2 piglets, demonstrating high levels of intelligence and empathy” (Một gia đình heo rừng tổ chức phá cũi, cứu 2 heo con, cho thấy mức độ cao của trí tuệ và thương xót). (1)

Các hình ảnh ghi lại cho thấy một heo rừng cái đã giúp 2 con heo nhỏ thoát ra khỏi 1 chuồng bẫy. Con heo rừng cái, dựa theo kích thước và tính phái nên được suy đoán là heo mẹ, đã tìm các chiến thuật để đẩy bật các thanh gỗ chốt đang chặn cửa chuồng bẫy. Các nhà khoa học tại Czech University of Life Sciences Prague nói rằng đây là lần đầu tiên ghi lại được hình ảnh xúm lại cứu heo mắc nạn trong loài heo rừng.

Bài báo trên tờ Scientific Reports nói rằng cách heo rừng cứu 2 heo con trong trường hợp này cho thấy trình độ cao của sự khôn ngoan và lòng thương xót. Chuyện xảy ra vào tháng 1/2020, được ghi lại bởi một nhóm khoa học gia từ đại học Czech University of Life Sciences tại khu vực bảo tồn thiên nhiên Voděradské Bučiny National Nature Reserve.

Một bẫy heo rừng, dùng bắp làm mồi bẫy, dựng lên để giúp các nhà khoa học sẽ nghiên cứu về các biện pháp ngăn ngừa dịch African Swine Fever (bệnh dịch tả lợn Châu Phi, viết tắt là dịch ASF). Một máy quay phim ghi lại hình ảnh 2 con heo con lọt vào bẫy và kẹt trong vòng 2 giờ 30 phút. Một nhóm 8 con heo nhỏ khác tới gần chuồng bẫy, lãnh đạo là một con heo rừng cái đã lớn hoàn toàn.

2-heo-con-ket-bay_heo-me-va-dan-heo-toi-cuu
2 heo con kẹt trong bẫy, heo mẹ và đàn heo tới cứu
Trong nỗ lực cứu 2 heo con ra khỏi chuồng bẫy. con heo cái lớn đã húc vào, ủi vào, nạy tới, nạy lui các điểm chiến lược, nơi các thanh gỗ gài chận cửa chuồng bẫy. Hình ảnh cho thấy lông bờm của con heo cái dựng cao lên, hiện tượng gọi là piloerection, mà các nhà khoa học gọi là dấu hiệu của căng thẳng hay nổi giận.

Các nhà khoa học nói rằng có vẻ là những con heo rừng khác cũng đang tìm cách giúp heo mẹ trong chiến dịch cứu 2 heo con ra khỏi cũi.

Trong vòng 6 phút đồng hồ của chiến dịch cứu 2 heo con, con heo cái đẩy bật được thanh gỗ đầu tiên ngăn chận mặt trước của chuồng bẫy. Nhưng toàn bộ chiến dịch cứu nguy đã kéo dài 29 phút đồng hồ, sau thời điểm đó, toàn bộ hai then gỗ chèn trước và sau của 2 cửa chuồng được heo mẹ đẩy văng ra, và các heo con chạy ra.

Bản tin Business Insider đăng nhiều tấm hình, trích xuất từ băng video giải cứu dài khoảng nửa giờ đồng hồ. Hình phổ biến là từ nhà khoa học Michaela Másílková tại đại học Czech University of Life Sciences Prague. Trong đó, có 4 tấm cho thấy thứ tự phá cửa chuồng để giải cứu.

heo-a
Hình a: Hai heo con dính bẫy do các nhà nghiên cứu dựng lên.

heo-b
Hình b: Con heo cái, được suy đoán là heo mẹ, dựng lông bờm, dấu hiệu căng thẳng.

heo-c
Hình c: Heo mẹ đẩy, ủi bật thanh gỗ mặt trước cửa chuồng.

heo-d
Hình d: Heo mẹ phá bật các then gỗ mặt trước và mặt sau của bẫy, cho 2 heo con thoát ra.
Các nhà khoa học nói đây là trường hợp đầu tiên ghi lại được heo tới cứu nguy heo khác, mà vài người gọi là một “hình thức phức tạp của thấu cảm” (“complex form of empathy"). Bản báo cáo cũng nói, hành vi cứu đồng loại chỉ được ghi nhận trong vài loài vật, trong đó có chuột và kiến.


Các nhà khoa học nói hành vi cứu nguy trong heo rừng không phải là điều ngạc nhiên, nhưng cách loài vật có khả năng suy nghĩ phức tạp và có quan hệ xã hội thương cảm mới là điều bất ngờ.

Để được xem là hành vi giải cứu, cần phải đáp ứng 4 điều kiện.  Các điều kiện đó là: con thú gặp nạn phải căng thẳng, đau khổ; con thú hiệp sĩ cứu nguy phải tự chấp nhận đưa mình vào chỗ nguy hiểm; hành động của con thú hiệp sĩ cứu nguy phải thích nghi với tình hình tại chỗ của con thú gặp nạn; và phải không có lợi ích tức khắc nào hay phần thưởng nào cho con thú hiệp sĩ cứu nguy.

Trường hợp này, các nhà khoa học nói, con heo rừng cái đã đáp ứng cả 4 phương diện trên. Bản báo cáo viết, hành vi cứu nguy khác với các hình thức khác của sự giúp đỡ trong các tổ chức phức tạp.
 
HÌNH ẢNH HEO RỪNG TRONG PHẬT GIÁO

Trong Phật Giáo, giữ truyền thống không sát sanh, nên trong giới luật không cho giết bất kỳ sinh vật nào. Trong Truyện Bản Sanh, Tundila Jataka (#388), có kể về một kiếp trước của Đức Phật: lúc đó, Bồ Tát là một con heo rừng.

Một hôm, Bồ Tát (lúc đó là một heo rừng) cùng với mẹ và một em heo đang nằm trong một cái hố, thì một cụ bà chống gậy đi tới gần. Heo mẹ kinh hoàng khi nghe tiếng gậy gõ trên mặt đất, đã phóng chạy, để lại 2 con heo nhỏ phía sau. Cụ bà cảm thấy thương xót 2 heo con, đặt vào giỏ và đưa về nhà nuôi như nuôi trẻ con.

Khi 2 heo nhỏ này lớn lên và mập ra, nhiều người đòi mua đều bị cụ bà từ chối, không chịu bán. Cho tới một hôm, trong một lễ hội, khi vài người đàn ông hết thịt, và muốn có thịt ngay. Sau khi bị cụ bà liên tục không chịu bán, những người đàn ông này mời cụ bà uống rượu cho tới say mèm, và rồi cụ bà đồng ý bán heo em của Bồ Tát.

Cụ bà đổ cơm vào máng và gọi heo em của Bồ Tát tới ăn. Khi heo em thấy những người đàn ông lạ cầm dây thòng lọng đứng gần máng, heo em biết là sắp chết, nên chạy tới heo anh (tức Bồ Tát, tiền thân Đức Phật) và đứng run sợ.

Bồ Tát nói với heo em rằng đó là số phận của tất cả các con heo do người nuôi, do vậy ngài không thấy đau đớn, mà chấp nhận định phận một cách an vui. Rồi Bồ Tát giảng cho heo em về tâm từ vô lượng, lúc đó âm thanh của ngài vang khắp cõi nước, mọi người đều nghe rõ.

Bài giảng của ngài rất thanh tịnh và thuần khiết tới nỗi nhiều người búng ngón tay và vẫy khăn khen ngợi. Nhà vua cho triệu tập 2 heo này tới lâu đài và đối xử như 2 con trai của vua, cho mặc trang phục và mang châu báu.

Bồ Tát trở thành vừa là một thẩm phán, vừa là một cố vấn tinh thần. Sau khi nhà vua từ trần, Bồ Tát viết một cuốn sách về công lý, sách này được cõi nước này tuân phục trong 60 ngàn năm, và rồi Bồ Tát lui về rừng cùng với heo em để sống những ngày cuối đời.  
.
Đức Phật giải thích rằng con heo em kia là tiền thân của một trong các môn đệ của Đức Phật. Vị này có nỗi sợ dày đặc về cái chết. Nhà sư này đã bỏ chạy, run rẩy mỗi khi nghe những tiếng động nhỏ, như là tiếng một cây gậy rơi hay là tiếng con chim hót. Khi Đức Phật nghe các môn đệ của ngài nói về nỗi sợ của nhà sư kia, Ngài mới kể chuyện này, để họ biết rằng đó không phải lần đầu tiên vị sư kia có nỗi sợ chết.

Nhà vua kia là tiền thân của Ananda, một trong những môn đệ hàng đầu của Đức Phật. Và đám đông từng nghe bài giảng của Bồ Tát nơi kiếp trước về tâm từ vô lượng bây giờ là các học trò của Đức Phật.
 
GHI CHÚ:
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà hiền triết người Ấn Độ Jiddu Krishnamurti (1895-1986) qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 1986 tại Ojai Valley, Quận Ventura, Nam California, Hoa Kỳ, nơi ông đã chọn làm quê hương thứ hai từ năm 1922 cho đến khi ông mất, dù ông không ở đó thường trực. Tính đến tháng 2 năm nay, 2024 đã tròn 38 năm kể từ ngày ông lìa bỏ trần gian. Krishnamurti là một trong những nhà hiền triết có sức ảnh hưởng rất lớn đối với nhân loại trong thế kỷ 20. Cuốn “The First and Last Freedom” của ông được Giáo sư Phạm Công Thiện dịch sang tiếng Việt từ trước năm 1975 ở Sài Gòn với tựa đề “Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng” là một trong những cuốn sách tôi rất yêu thích đọc từ thời còn niên thiếu. Nhân tìm đọc lại một số bài giảng và bài viết của Krishnamurti, tôi tình cờ gặp được bài thơ “Song of the Beloved” (Bài Ca Về Người Yêu), nhưng không thấy ghi ông đã làm từ bao giờ. Có lẽ bài ca này ông làm vào những lúc về nghỉ ngơi tịnh dưỡng ở Ojai, vì bài đó nói lên lòng yêu thích thâm thiết của ông đối với thiên nhiên,
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch...
Người viết chơi với Phạm Thiên Thư từ những năm học trung học đệ nhất cấp khoảng 58-59. Thư đến nhà tôi ở ấp Cả Trắc, khu Ông Tạ và chúng tôi thường kéo nhau ra quán cà phê vợt ở đầu ngõ đi vào ấp. Trong những lần uống cà phê, Thư nói sôi nổi về việc lập học hội Hồ Quý Ly, để thực hiện việc nghiên cứu, viết văn, làm thơ. Mục đích là tiến tới làm một tập san văn nghệ...
Chúng tôi vẫn biết Hoàng Cầm là người cùng quê và là bạn với một ông anh họ từ thời kháng chiến chống Pháp, nhưng không ngờ nhà thơ lại theo xe ra đón chúng tôi ở phi trường Nội Bài. Hôm đó Hoàng Cầm mặc một cái màu đỏ xậm trông rất hào hoa dù Hà Nội năm đó vẫn còn rất nghèo...
Mở đầu cho sê-ri bài viết về phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm thập niên 50 tại Bắc Việt Nam, là một tư liệu hiếm quý về/của nhà thơ Phùng Quán. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Nước Mỹ thế kỷ XX cống hiến cho nhân loại sự phong phú và đa dạng của các trào lưu, chủ đề và tiếng nói trong văn học. Một số tác giả và tác phẩm kinh điển đã xuất hiện trong thời kỳ này, góp phần phát triển truyền thống văn học có từ những thế kỷ trước. Riêng trong lĩnh vực tiểu thuyết, văn học hiện đại, thịnh hành vào đầu thế kỷ XX ở Châu Âu với kỹ thuật “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của James Joyce và Virginia Woolf, lan rộng sang Mỹ, tìm cách tách rời các hình thức truyền thống thế kỷ XIX để cách tân và hình thành một dòng văn học mới với phong cách độc đáo, táo bạo và mở ra những cánh cửa thú vị bất ngờ cho người đọc đi vào ngôi nhà nghệ thuật. Kỷ nguyên văn học hiện đại phương Tây bắt đầu từ hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX và, không thể nghi ngờ, Mỹ là quốc gia có những đóng góp to tát. Các tiểu thuyết gia lớn trong thời kỳ này, ta có thể nhắc đến F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway và William Faulkner.
Bước đi như vậy rõ ràng là không cần lưu dấu; nhưng chính là bước đi siêu tuyệt của bậc đại nhân, đại sĩ: không dấu tích mà lại tràn đầy công đức, lợi ích cho dân tộc, đạo pháp và nhân loại nhiều thế kỷ sau.
Một chương trong tiểu thuyết Đường Về Thủy Phủ của nhà văn Trịnh Y Thư...
Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ lớn của nước Việt trong thế kỷ 20. Ộng có địa vi cao cả trên thì văn đàn miền Nam và là người duy nhất được tôn xưng là thi bá...
Những phân đoạn này thuộc vào phần có tựa là “Dưới những gốc nho biển,” nằm trong tiểu thuyết “Đường về thủy phủ.” Tuy nhiên, cũng như phân đoạn [1-3] tôi đã nói ở trên, nó vẫn mang đủ những yếu tố của một truyện ngắn. Hẳn nhiên người đọc sẽ thấy rõ đây là dụng ý của tác giả. Và chỉ đến lúc đọc xong trọn “Đường về thủy phủ,” thì mới có một suy nghiệm tổng thể, và có thể bật ra cách ráp nối những mảnh hình, những sự kiện, và lóe sáng một sợi dây xuyên suốt tác phẩm qua bản chất của các nhân vật, để từ đó hiểu rõ hơn chủ đề của nhà văn Trịnh Y Thư...