Hôm nay,  

Đọc Bài Thơ ‘Giấc Mơ Hoang Vu Về Một Bắt Đầu Mới’ Của Nhà Nhơ Lawrence Ferlinghetti Vừa Qua Đời

05/03/202100:00:00(Xem: 2104)
 
Doc Tho Cua Lawrence Ferlinghetti 01

Nhà thơ Lawrence Ferlinghetti tại tiệm sách City Lights của ông ở San Fracisico. (Photograph: Sarah Lee/The Guardian)
 
Lawrence Ferlinghetti, nhà thơ, nhà xuất bản, họa sĩ và nhà hoạt động chính trị là người đồng sáng lập tiệm sách nổi tiếng City Lights tại thành phố San Francisco và trở thành biểu tượng của thành phố này, đã qua đời ở tuổi 101, theo bản tin của báo The Guardian tường thuật hôm 23 tháng 2 năm 2021. Theo The Guardian, nhà thơ Ferlinghetti đã qua đời tại tư gia vào tối Thứ Hai, 22 tháng 2 do bệnh liên quan tới phổi.

Ông là nhà thơ thuộc Thế Hệ Beats (Beat Generation) vào giữa thập niên 1950 ở Mỹ. Đây là thế hệ chịu ảnh hưởng sâu sắc Thiền và tư tưởng Phật Giáo. Qua nhiều năm ông đã xuất bản nhiều tác phẩm của các nhà văn và nhà thơ thuộc Thế Hệ Beats như Allen Ginsberg, Jack Kerouac, Gregory Corso, William S. Burroughs, Diane diPrima, Michael McClure, Philip Lamantia, Bob Kaufman, và Gary Snyder. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông “A Coney Island of the Mind,” do New Directions xuất bản vào năm 1958, là một tuyển tập thơ đã được dịch sang 9 thứ tiếng và bán ra hơn một triệu bản.

Bài thơ “Wild Dreams Of A New Beginning” [Giấc Mơ Hoang Vu Về Một Bắt Đầu Mới] của Ferlinghetti mang âm hưởng của triết lý vô thường biến dịch và Tánh Không [Śūnyatā] của Phật Giáo. Trong đó ông mô tả về một giấc mơ về ngày tận thế khi nước biển dâng lên cao tràn ngập khắp núi đồi và thành phố lớn trên thế giới để cuối cùng chỉ còn lại tiếng dế kêu và tiếng chim hót trong một thế giới hoang vu.
 
Cuộc đời của nhà thơ Lawrence Ferlinghetti
 
Ferlinghetti sinh tại Yonkers của New York vào ngày 24 tháng 3 năm 1919. Mẹ ông, nhũ danh Lyons Albertine Mendes-Monsanto là một người Pháp, gốc Do Thái Sephardic ở Bồ Đào Nha. Cha ông, Carlo Ferlinghetti, sinh ở Brescia tại Ý vào năm 1872. Ông di dân vào Hoa Kỳ năm 1892 và làm người bán đấu giá tại Little Italy ở Thành Phố New York.

Lawrence đã không biết tên họ gốc của ông mãi cho đến năm 1942, khi ông cung cấp giấy khai sanh để gia nhập vào Hải Quân Hoa Kỳ. Dù ông sử dụng “Ferling” cho tác phẩm được xuất bản sớm nhất của mình, Ferlinghetti đã đổi sang họ gốc của Ý “Ferlinghetti” vào năm 1955, khi ông xuất bản tập thơ đầu tay là cuốn “Pictures of the Gone World.”

Cha của Ferlinghetti đã chết 6 tháng trước khi ông ra đời, và mẹ ông đã được nhận làm tị nạn ngay sau khi sinh ra ông. Ông được nuôi dưỡng bởi người dì Emily, là vợ cũ của Ludovico Monsanto, người cậu của mẹ ông từ Quần Đảo Virgin là người đã dạy tiếng Tây Ban Nha tại Viện Hải Quân Hoa Kỳ. Emily đã mang Ferlinghetti tới Strasbourg tại Pháp, nơi họ sống 5 năm đầu đời của ông, với tiếng Pháp là ngôn ngữ đầu tiên của ông.

Sau khi họ trở về Mỹ, Ferlinghetti được cho vào một cô nhi viện tại Chappaqua, New York trong khi dì Emily đi tìm việc làm. Cuối cùng bà đã được thuê làm nữ gia sư Pháp cho người con gái của Presley Eugene Bisland và vợ Anna Lawrence Bisland, tại Bronxville, New York, là con gái của nhà sáng lập Trường Đại Học Sarah Lawrence College, là William Van Duzer Lawrence. Họ sống tại Plashbourne Estate. Vào năm 1926, Ferlinghetti đã được giao cho Bislands chăm sóc. Sau khi vào học nhiều trường, gồm Riverdale Country School, Bronxville Public School, và Mount Hermon School (hiện nay là Northfield Mount Hermon School), ông đã vào Đại Học North Carolina tại Chapel Hill, nơi ông lấy bằng Cử Nhân về báo chí vào năm 1941. Lawrence Ferlinghetti là một Hướng Đạo Sinh Đại Bàng trong Hội Nam Hướng Đạo Mỹ. Tạp chí thể thao của ông đã được đăng trong báo The Daily Tar Heel, và ông đã bắt đầu đăng nhiều truyện ngắn trong tạp chí Carolina Magazine, tạp chí này nhà văn Thomas Wolfe cũng có viết bài.

Vào mùa hè năm 1941, Ferlinghetti sống với 2 bạn học sinh viên trên Đảo Little Whale Boat Island tại Casco Bay, Maine, bắt tôm hùm, và cào nghêu từ đá để bán tại Portland, Maine, để sử dụng làm thuốc. Kinh nghiệm này giúp ông yêu thích biển, một chủ đề trải suốt qua sự nghiệp thơ của ông. Sau ngày 7 tháng 12 năm 1941, cuộc tấn công của Nhật bào Trân Châu Cảng, Ferlinghetti ghi danh vào học trường Midshipmen tại Chicago, và vào năm 1942 ông ra trường với chức sĩ quan cấp dưới trên du thuyền của J.P. Morgan III, mà đã được tân trang để đi tuần tra các tàu ngầm ngoài khơi Bờ Biển Miền Đông.

Doc Tho Cua Lawrence Ferlinghetti 02

Nhà thơ Lawrence Ferlinghetti tại City Lights Bookstore vào năm 2007. (Photo by voxtheory. - https://pennyspoetry.fandom.com


Ferlinghetti kế tiếp được chỉ định tới Ambrose Lightship bên ngoài hải cảng New York để nhận dạng tất cả tàu bè đi vào. Trong năm 1943 và 1944 ông phục vụ trong vai trò một sĩ quan trên ba tàu nhỏ chạy nhanh của Hải Quân Hoa Kỳ dùng để hộ tống đoàn tàu. Là chỉ huy của chiếc tàu nhỏ USS SC1308, ông đã có mặt trong cuộc đổ bộ tại Normandy như một phần của chiến dịch chống tàu ngầm chung quanh các bờ biển. Sau VE Day, Hải Quân thuyên chuyển ông tới Pacific Theater, nơi ông phục vụ như một hoa tiêu của tàu USS Selinur. 6 tuần lễ sau vụ thả bom nguyên tử tại Nagasaki, ông đến thăm sự tàn phá của thành phố này, một kinh nghiệm làm thay đổi ông thành một người theo chủ nghĩa hòa bình trọn đời.

Sau chiến tranh, ông làm việc trong phòng thư tại tạp chí Time, tại Manhattan. G.I. Bill giúp ông ghi danh vào Đại Học Columbia. Trong những năm học ở đây ông đọc văn học hiện đại, và ông đã nói là vào lúc đó ông bị ảnh hưởng bởi Shakespeare, Marlowe, các nhà thơ Lãng Mạn, Gerard Manley Hopkins, và James Joyce, cũng như các nhà thơ Mỹ Whitman, T. S. Eliot, Ezra Pound, Carl Sandburg, Vachel Lindsay, Marianne Moore, E. E. Cummings, và các tiểu thuyết gia Mỹ Thomas Wolfe, Ernest Hemingway, và John Dos Passos. Ông đã lấy bằng thạc sĩ về văn chương Anh vào năm 1947 với luận án về John Ruskin và họa sĩ J.M.W. Turner.

Từ Columbia, ông qua Paris tiếp tục học, và sống tại đây từ năm 1947 tới 1951, lấy bằng Tiến Sĩ tại Đại Học Paris.

Sau khi cưới Selden Kirby-Smith vào năm 1951 tại Quận Duval, Florida, Ferlinghetti định cư tại San Francisco vào năm 1953, nơi ông dạy tiếng Pháp trong một chương trình giáo dục người lớn, vẽ, và viết phê bình nghệ thuật. Các bản dịch sớm nhất của ông là những bài thơ của nhà thơ siêu thực Pháp Jacques Prévert, được đăng bởi Peter D. Martin trong tạp chí văn hóa phổ thông City Lights của ông.

Vào năm 1953, Ferlinghetti và Martin sáng lập tiệm sách City Lights Bookstore, là tiệm sách tất cả in bằng giấy đầu tiên trên toàn quốc. 2 năm sau, sau khi Martin rời khỏi, ông mở thêm cánh xuất bản của City Lights là Nhà Xuất Bản City Lights, với tập thơ đầu tiên của ông, “Pictures of the Gone World,” số đầu tiên trong loạt Pocket Poets Series. Loạt này được tiếp nối bởi những cuốn sách của Kenneth Rexroth, Kenneth Patchen, Marie Ponsot, Allen Ginsberg, Denise Levertov, Robert Duncan, William Carlos Williams, và Gregory Corso. Dù Nhà Xuất Bản City Lights Publishers được nổi tiếng là xuất bản sách của những tác giả Thế Hệ Beat (Beat Generation), Ferlinghetti không bao giờ cố ý xuất bản độc quyền về Beats.

Số thứ tư trong loạt Pocket Poets Series lả cuốn sách “Howl” của Allen Ginsberg. Cuốn sách đã bị cảnh sát San Francisco tịch thu vào năm 1956. Ferlinghetti và Shig Murao, người quản trị nhà sách là người đã bán cuốn sách cho cảnh sát, đã bị bắt vì tội khiêu dâm. Sau khi các cáo buộc chống lại Murao được bãi bỏ, Ferlinghetti, được biện hộ bởi Jake Ehrlich và ACLU, ra tòa tại Tòa Án Thành Phố San Francisco. Sự phổ biến đã tạo ra bởi phiên tòa lôi cuốn sự chú ý trên toàn quốc về những nhà văn nhà thơ trong phong trào San Francisco Renaissance và phong trào Beat. Ferlinghetti có sự hậu thuẫn của các nhân vật văn học và học thuật có uy tín, và khi kết thúc phiên tòa kéo dài, Chánh Án Clayton W. Horn cho thấy rằng Howl không khiêu dâm và tuyên bố ông trắng án vào tháng 10 năm 1957. Vụ kiện mang tính bước ngoặt của Tu Chính Án Đầu Tiên đã thiết lập một tiền lệ pháp lý quan trọng cho việc xuất bản các tác phẩm văn học gây tranh cãi khác với tầm quan trọng xã hội mang lại.


Dù phong cách và chủ đề viết của riêng Ferlinghetti không giống lắm với nhóm Beat New York ban đầu, ông có nhiều liên hệ quan trọng với các nhà văn nhà thơ Beat, là những người đã biến tiệm sách City Lights Bookstore thành tổng hành dinh của họ khi họ ở San Franscico. Ông thường nói ông không phải là Beat, nhưng là một người tự do phóng khoáng của thế hệ đầu. Là cựu chiến binh đã lập gia đình và là chủ tiệm sách, ông đã không chia xẻ đời sống cao của những người thuộc Thế Hệ Beat trên đường. Nhà văn Kerouac đã đưa Ferlinghetti vào trong vai “Lorenzo Monsanto” trong tiểu thuyết tự truyện của ông “Big Sur” xuất bản vào năm 1962, câu chuyện kể về việc Jack ở tại túp lều của Ferlinghetti trong một vùng ven biển hoang dã của Big Sur. Kerouac mô tả nhân vật Ferlinghetti như là một người chủ hào phóng và dí dỏm, trong sự vui vẻ và suy sụp của Thần Rượu.

Qua nhiều năm Ferlinghetti đã xuất bản tác phẩm của nhiều tác giả Beats, gồm Allen Ginsberg, Jack Kerouac, Gregory Corso, William S. Burroughs, Diane diPrima, Michael McClure, Philip Lamantia, Bob Kaufman, và Gary Snyder. Ông là nhà xuất bản của các tác phẩm của Ginsberg trong hơn 30 năm. Khi nhà thơ Ấn Độ của phong trào văn chương Hungryalist bị bắt vào năm 1964 tại Kolkata, Ấn Độ, Ferlinghetti đã giới thiệu các nhà thơ thuộc Phong Trào Hungryalist cho độc giả Tây Phương qua các số khởi đầu của Tạp Chí City Lights Journal.

Không bao lâu sau khi định cư tại San Francisco vào năm 1950, Ferlinghetti đã gặp nhà thơ Kenneth Rexroth người có quan điểm về triết lý vô chính phủ đã ảnh hưởng đến sự phát triển chính trị của ông. Ông tự nhận là nhà người theo triết lý vô chính phủ, thường được liên kết với những nhà chủ trương vô chính phủ khác tại North Beach, và đã bán các tờ báo vô chính phủ Ý tại tiệm sách City Lights Bookstore, theo Kevin Kelly trong bài viết “Lawrence Ferlinghetti – interview.” Là nhà phê bình về chích sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Ferlinghetti đã có lập trường chống lại chủ nghĩa toàn trị và chiến tranh.

Trong khi Ferlinghetti giải bày rằng ông là “một người vô chính phủ tận đáy lòng,” ông thừa nhận rằng thế giới cần có đông những “bậc thánh” để chủ nghĩa vô chính phủ thuần túy được tồn tại một cách hiện thực. Bởi vậy ông tán thành điều có thể đạt được bởi xã hội chủ nghĩa dân chủ theo kiểu Bắc Ấu, theo Christopher Felver trong tác phẩm xuất bản năm 1996 “The Coney Island of Lawrence Ferlinghetti.”

Tác phẩm của Ferlinghetti thách thức định nghĩa về nghệ thuật và vai trò của nhà nghệ sĩ trong thế giới. Ông thúc giục các nhà thơ dấn thân vào đời sống chính trị và văn hóa. Khi ông viết trong “Populist Manifesto” rằng, “Hỡi các thi sĩ, hãy bước ra khỏi tủ áo quần của bạn, Hãy mở cửa sổ của bạn, hãy mở các cửa chính của bạn, Bạn đã bị giam giữ quá lâu trong thế giới đóng kín của mình… Thơ nên chuyên chở công chúng/tới những nơi cao/hơn những bánh xe khác có thể chuyên chở nó…”

Vào năm 1968, ông đã ký cam kết “Chống Thuế Chiến Tranh của Những Nhà Văn và Những Chủ Bút,” thề không trả thuế để chống lại cuộc Chiến Tranh Việt Nam, theo “Writers and Editors War Tax Protest” được đăng trong báo New York Post vào ngày 30 tháng 1 năm 1968.

Ferlinghetti đã có công trong việc mang thơ ra khỏi học viện và đưa trở lại không khí công cộng với những buổi đọc thơ công chúng. Với Ginsberg và những nhà văn nhà thơ cấp tiến khác, ông tham gia vào các sự kiện tập trung vào những vấn đề chính trị như cuộc cách mạng Cuba, chạy đua vũ khí nguyên tử, việc tổ chức công nhân nông trại, vụ giết người của Salvador Allende, Chiến Tranh Việt Nam, Tháng 5 Năm 1968 Tại Paris, Sandinistas tại Nicaragua, và Quân Đội Giải Phóng Dân Tộc Zapatista tại Mexico. Ông không chỉ đọc cho các độc giả tại Hoa Kỳ mà còn cho độc giả tại Châu Âu và Châu Mỹ La Tinh. Nhiều bài viết của ông đã lan truyền sang Pháp, Ý, Liên Bang Xô Viết, Cuba, Mexico, Chile, Nicaragua, và Cộng Hòa Tiệp.

Ferlinghetti đã bắt đầu vẽ tại Paris vào năm 1948. Tại San Fracisco, ông có một phòng vẽ tọa lạc tại 9 Mission Street trên Embarcadero vào thập niên 1950s mà ông thừa hưởng từ Hassel Smith. Ông hâm mộ những người theo trường phái biểu hiện trừu tượng tại New York, và họa phẩm đầu tiên của ông thể hiện ảnh hưởng của họ. Phong cách tượng hình hơn càng rõ rệt trong tác phẩm về sau này của ông. Các tranh vẽ của Ferlinghetti được trưng bày tại nhiều bảo tàng viện khác nhau trên thế giới, từ Butler Museum of American Painting tới Il Palazzo delle Esposizioni tại Rome. Ông đã liên kết với phong trào Fluxus quốc tế thông qua Archivio Francesco Conz tại Verona. Tại San Francisco, họa phẩm của ông có thể được xem tại Phòng Triển Lãm Nghệ Thuật George Krevsky Gallery.

Doc Tho Cua Lawrence Ferlinghetti 03

Nhà thơ Ferlinghetti (trái) cùng với nhà thơ Allen Ginsburg, trong cuộc biểu tình vào năm 1971 chống lại những bắt bớ ở Brazil. (Photograph: Sal Veder/AP -  www.theguardian.com)


Trong năm 2019, thành phố San Francisco đã công bố ngày 24 tháng 3, sinh nhật của ông, là Ngày Lawrence Ferlinghetti Day để đánh dấu 100 năm tuổi của ông, với những lễ hội kéo dài cả tháng.

Trong dịp này, báo The Guardian đã phỏng vấn ông. Khi được hỏi rằng ông có tự hào về những thành tựu của mình không, Ferlinghetti trả lời rằng, “Tôi không biết, chữ đó, ‘tự hào’, là quá ngã mạn. Hạnh phúc thì có lẽ tốt hơn. Ngoại trừ khi bạn cố gắng định nghĩa chữ hạnh phúc, thì bạn thực sự rắc rối.”
Để tưởng niệm nhà thơ Lawrence Ferlinghetti, xin dịch bài thơ “Wild Dreams Of A New Beginning” [Giác Mơ Hoang Vu Về Một Bắt Đầu Mới].
 
Giác Mơ Hoang Vu Về Một Bắt Đầu Mới
 
Xa lộ tối nay im lặng nín thở
Vượt ra ngoài rìa bê tông
những nhà hàng chìm vào giấc mơ
với những cặp nến sáng
Alexandria mất rồi mà vẫn cháy
trong một tỉ ngọn đèn
Những cuộc đời đi qua những cuộc đời
đang dừng lại ở ngọn đèn đỏ
Vượt qua vòng quay giao lộ
‘Những linh hồn nuốt những linh hồn trong rỗng không’
Bản hòa tấu piano phát ra từ cửa sổ nhà bếp
Một nhà du già nói chuyện tại Ojai
‘Tất cả đều diễn ra trong một tâm’
Trên vườn cỏ dưới tàn cây
những người yêu nhau đang lắng nghe
vị đạo sư nói họ là nhất thể
với vũ trụ
Những con mắt phát hiện những đóa hoa và hóa thành chúng
Sự im lặng nín thở
trên xa lộ tối nay
khi sóng triều Thái Bình Dương cao một dặm
quét vào
Los Angeles trút hơi thở cuối cùng
và chìm xuống biển như tất cả đèn chiếc tàu Titanic sáng
Chín phút sau đó tới Willa Cather ở Nebraska
cũng chìm theo nó
Nước biển dâng lên tới Utah
Những nhà thờ Mormon bị cuốn đi như những ngôi nhà nhỏ
Những con chó sói bối rối và không biết bơi đi đâu
Một dàn nhạc trên sân khấu ở Omaha
tiếp tục chơi nhạc Water Music của Handel
nước ngập những cây kèn
những người thổi kèn trôi đi theo nhạc cụ của họ
nắm chặt chúng như những người yêu ở chân trời
Loop của Chicago trở thành nơi tàu lượn siêu tốc
Những tòa nhà chọc trời giống như những ly nước đầy
Đại Hồ trộn với nước mắt Nhà Phật
Những Cuốn Sách Vĩ Đại ngập dưới nước ở Evanston
Bia của Milwaukee được chồng lên với bọt nước biển
Dòng Sông Đẹp của Buffalo đột nhiên biến thành muối
Đảo Manhattan bị quét sạch trong mười sáu giây
Cột buồm bị chôn của Amsterdam nhô lên
Khi ngọn sóng dữ ập vào phía Đông
để tẩy xóa món phô mát Camembert lâu đời của Châu Âu
nhà hàng Manhatta bị hấp trong cây nho biển
vùng đất đã được rửa sạch thức tỉnh trở lại hoang vu
chỉ còn lại tiếng dế kêu vang
tiếng kêu gào của những con chim biển trên cao
trong vô tận rỗng không
khi Hudson lấy lại sự rậm rạp của nó
và người Thổ Dân đòi lại những chiếc thuyền độc mộc của họ. 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhắc đến GS Nguyễn Văn Sâm, người ta biết ông nhiều trong cương vị một nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu di sản Hán-Nôm và văn học Nam Bộ hơn là nhà văn, nhà thơ. Điều này không phải do sáng tác của ông chưa chín, mà có lẽ chính sự đóng góp quá lớn của ông ở mảng khảo cứu, dịch thuật Hán-Nôm đã làm che khuất những tác phẩm văn chương giá trị của ông...
Mấy tháng đầu năm 2023 này sao mà mưa bão liên miên... Làm như thiên nhiên muốn bù đắp cho tình trạng hạn hán kéo dài cả thập niên trước đây ở tiểu bang Cali. Dường như không hẳn thế mà xem ra còn ngược lại: Đợt biến động khí hậu này liên tiếp cũng đã và đang gây nên quá nhiều thiệt hại trên hầu hết các vùng của lãnh thổ Hoa Kỳ, đe dọa nặng nề đến môi trường sống của toàn thể dân cư nữa!
Mùa hè năm 1865, ngay sau khi bắt đầu viết Tội Ác và Hình Phạt (Crime and Punishment), đại văn hào vĩ đại nhất mọi thời đại lâm vào hoàn cảnh tệ đến không thể tệ hơn. Vừa góa vợ thì bị nằm liệt giường vì chứng động kinh, Fyodor Dostoyevsky (11/11/1821 – 9/2/1881) còn ‘rước thêm vạ vào thân.’ Sau khi anh trai qua đời, Dostoyevsky, vốn đã nợ nần chồng chất vì máu đỏ đen, đã tự đứng ra gánh món nợ của tòa soạn của anh trai. Chủ nợ nhanh chóng kéo đến gõ cửa nhà ông, đe dọa sẽ tống ông vào nhà tù của những con nợ. (Một thập niên trước, ông suýt chút nữa đã dính án tử hình vì đọc những cuốn sách bị cấm; thay vào đó ông bị kết án bốn năm khổ sai tại một trại lao động ở Siberia – cho nên viễn cảnh bị tù đày lần nữa khiến ông phát hoảng.)
Phải chăng ‘nhìn thấu tim đen’ là một lối nói hàm ý? Vì sao tim lại đen mà không đỏ? Vì trái tim tối tăm, tính toán, mưu đồ. Nhìn thấu tâm lý là nhìn trái tim cả đen lẫn đỏ, cả xấu lẫn tốt, cả buồn lẫn vui, cả thất vọng lẫn hy vọng. Những người giỏi nhìn ra tâm lý người khác, tâm lý đám đông thường trở thành những bậc cao nhân, hoặc ít nhất là thầy bói.“Giỏi nhìn ra tâm lý” là một cụm từ ngụ ý người có học thuật, có tập luyện, có kinh nghiệm nắm bắt những ý nghĩ âm thầm, những cảm giác tâm tư, và cá tính người đối diện. Học tâm lý mà không có khả năng thông tuệ thì chỉ từ chương, ít dùng được vào việc gì quan trọng, ngoài trừ lãnh lương làm cố vấn ở các trường học, các cơ sở nhân viên, hoặc các nhà tù. Muốn nhìn xuyên tâm lý phải bẩm sinh nhạy cảm, cảm nhận sắc bén, và tấm lòng tốt thường làm khả năng thông cảm, đồng cảm mạnh mẽ, dễ dàng nối kết với tâm tình người khác. Đến cấp bậc cao nhân thì khả năng “nhận thức sáng tạo” là lực chủ yếu để nhìn xuyên tâm hồn.
John Steinbeck sinh tại Salinas, California năm 1902 - một thành phố cách xa bờ biển Thái Bình Dương vài dặm, gần Thung Lũng Salinas màu mỡ và cách San Jose khỏang 70 dặm Anh. Nơi đây đã được dùng làm bối cảnh cho nhiều tiểu thuyết của ông...
Nói dối là một đặc tính trong thời đại hôm nay, đầu thế kỷ 21. Có ba loại người: Nói dối chuyên nghiệp vì có mục đích. Nói dối luôn miệng vì thói quen. Nói dối khi cảm thấy cần thiết hoặc sợ hãi. Nói không đúng sự thật nhưng tưởng mình nói thật, cũng là một cách dối. Nói thật và nói dối trên căn bản đối nghịch nhau, nhưng đôi khi, cả hai là một. Vì hầu như vô tình hay cố ý, ít ai thực sự nói thật. Chẳng phải thích thú khi nhìn rõ tim đen của người đang ba hoa cố thuyết phục mình một chuyện gì có lợi cho anh ta? Chẳng phải tức cười khi biết anh này muốn tán tỉnh, nhưng cố nói những lời nghiêm túc? Lào sao biết được? Hãy tập nhìn xuyên giả dối. Tìm người nói thật và đúng sự thật là chuyện hiếm hoi, trước hết, vì ngày nay, sự thật lớn là gì, không ai biết. Còn sự thật nhỏ, chỉ thật một cách tương đối, mỗi người tin khác nhau.
Đây chỉ là cách nói nhẹ đi, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng, làm khó chịu, xúc phạm. Tôi chỉ muốn nói từ CHẾT...
Sau khi nhổ răng, tôi xin anh nha sĩ trẻ mấy cái răng chết, khá thê thảm, để mang về. Lần trước cũng vậy. Anh tỏ vẻ thông cảm. “Bác giữ làm kỷ niệm?” “Vâng. Chúng nó theo tôi bảy mươi mấy năm rồi. Chiến đấu giỏi lắm. Giữ xác lại để nhớ.” Đúng. Răng kề cận người hơn tình nhân. Ở với người trung thành hơn vợ. Nói cắn là cắn, nói nhai là nhai, nói nhe là nhe, nói ngậm là ngậm. Tuyệt nhiên vâng lời, không cãi cọ gì. Chỉ có già đi, lỏng chân, rồi vĩnh biệt.
Gần đây cô cũng hay nghĩ về người chồng xấu số. Đúng ra cô thấy anh trong những giấc mơ. Cô thấy anh và cô đi dạo tại những nơi chốn thơ mộng của vùng đất cố đô nơi cô sinh ra và lớn lên. Những giấc mơ lạ, bởi cô gặp anh và kết hôn với anh khi cô đã vào Nam. Anh là người miền Nam và không hề ra thăm miền đất đó bao giờ. Nhưng trong giấc mơ cô thấy cô và anh thật rõ, khi thì ngồi bên nhau trong ngôi nhà cổ của ba mạ cô ở khu Gia Hội, khi thì thơ thẩn bên bờ sông Hương gần ngôi trường Trung học thân yêu của cô, khi thì đứng dưới bóng mát ngôi nhà thờ uy nghiêm sừng sững trên một ngọn đồi.
Trong buổi tiếp kiến ban biên tập nguyệt san “Phụ nữ Giáo hội Thế giới” của báo Quan sát viên Roma của Toà Thánh, trong tuần qua, dịp kỷ niệm 10 năm thành lập, Đức Thánh Cha khích lệ mọi người và nói: “Phụ nữ có khả năng nói ba ngôn ngữ: lý trí, trái tim và đôi tay”. Có phải Đức Thánh Cha muốn nói: Đối với phụ nữ ba điều này là một: Một người phụ nữ thông minh họ có thể dùng đầu óc mình để thành đạt trong học vấn, trong nghề nghiệp nhưng đồng thời với trí óc thông minh, trái tim mẫn cảm, họ cũng dùng thêm đôi tay của mình để tạo ra những sản phẩm đẹp đẽ và đầy trí tuệ, đầy tình yêu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.