Hôm nay,  

Năm Mới 2021 Đọc Thơ Tân Niên Của Nhà Thơ William Stanley Merwin

01/01/202100:00:00(Xem: 2202)
 NAM MOI 2021 DOC THO TAN NIEN 01

Năm 2020 trôi qua với nhiều biến động lớn lao mà đại dịch Covid-19 là sự kiện nổi bật nhất sẽ còn ảnh hưởng lâu dài đối với đời sống hàng ngày của toàn nhân loại. Ngoài những khủng hoảng trầm trọng mà đại dịch đã tạo ra cho kinh tế và sức khỏe của con người trên toàn hành tinh, còn có những thay đổi lớn lao đối với các sinh hoạt văn hóa, giáo dục, tôn giáo, v.v…

Ngày nay, đi bất cứ ở đâu chúng ta đều thấy mọi người đeo khẩu trang và giữ khoảng cách hơn một mét rưỡi với người khác. Khẩu trang trở thành hình ảnh thời đại đối với mọi tầng lớp xã hội. Khoảng cách giữa người với người đã thành một thứ bức tường vô hình tạo ra một khoảng trống vắng bao quanh con người. Không còn nơi nào trên thế giới là an ổn. Nỗi bất an không chỉ ở bên ngoài mà còn nằm bên trong tâm thức con người!

Và còn một điều kinh dị khác mà trước đây í tai nghĩ tới. Đó là cái chết bất ngờ, rộng khắp và không thể tiên liệu được. Người già chết, giới trung niên chết, thanh niên chết. Con Covid-19 có thể gõ cửa bất cứ người nào và khi nó kêu ai thì người đó nấy dạ và âm thầm lặng lẽ đi theo nó mà không một lời từ biệt dù với người thân yêu nhất! Tính đến những ngày cuối năm 2020, trên thế giới đã có gần 1.8 triệu người chết, và riêng nước Mỹ đã hơn 330,000 người thiệt mạng. Một con số kinh hoàng!

Tuy nhiên, thời gian vẫn cứ lặng lẽ trôi qua. Hết giây rồi tới phút, rồi tới giờ, rồi ngày, tuần, tháng, và năm. Hết năm cũ rồi tới năm mới. Năm cũ 2020 ra đi để cho năm mới 2021 lên ngôi. Dưới gót chân của thời gian không một thứ gì trên cõi đời này có thể tránh khỏi sự dẫm đạp và tàn phá. Đại kịch tác gia và thi hào Anh Quốc William Shakespear, trong Sonnet 19, đã mô tả sự tàn phá của thời gian như sau.
 
Thời gian tàn phá, làm cùn móng vuốt con sư tử của ngươi,
Và làm cho trái đất nuốt chửng những đứa con dễ thương của nó;
Nhổ những chiếc răng nhọn ra khỏi hàm của con hổ hung dữ,
Và đốt cháy con phượng hoàng trường thọ trong máu của nó…
 
Nói năm mới là nói theo chu kỳ thời gian, còn đối với con người thì mỗi năm sẽ càng già thêm mà điều dễ thấy nhất là tóc bạc. Giống như Thiền Sư Mãn Giác thời Nhà Lý ở Việt Nam dạy đồ chúng: “Lão tùng đầu thượng lai” [Già đến từ trên đầu].

Nhưng Năm Mới [New Year] theo lịch Tây Phương bắt đầu như thế nào?
 
Khởi nguyên của Năm Mới Tây Lịch
 
Ngày Đầu Năm, hay nói đơn giản là Năm Mới, được cho là ngày 1 tháng 1, ngày đầu của một năm trên lịch Gregorian hiện đại cũng như lịch Julian, theo www.en.wikipedia.org.

Lịch Gregorian là lịch được sử dụng nhiều nhất trên thế giới. Nó được trình làng vào tháng 10 năm 1582 bởi Đức Giáo Hoàng Gregory XIII như là một điều chỉnh nhỏ đối với lịch Julian, giảm trung bình một năm từ 365.25 ngày xuống còn 365.2425 ngày, và điều chỉnh sự đi lệch trong năm ‘nhiệt đới’ hay ‘mặt trời’ mà sự không chính xác đã tạo ra trong nhiều thế kỷ.

Lịch Julian, được trình làng bởi Julius Caesar vào năm 46 trước Chúa Giáng Sinh, là sự cải tổ của lịch La Mã. Nó có hiệu quả áp dụng vào ngày 1 tháng 1 năm 45 trước Chúa Giáng Sinh, bởi sắc lệnh. Lịch này được lập ra với sự trợ giúp của các nhà toán học và thiên văn học Hy Lạp cũng như nhà thiên văn học Sosigenes của Alexandria. Lịch Julian vẫn còn được sử dụng tại nhiều nơi của Giáo Hội Chính Thống Giáo Đông Phương và tại nhiều nơi của Chính Thống Giáo Phương Đông cũng như các thổ dân nói tiếng Berber tại Bắc Phi.

Tại La Mã tiền Thiên Chúa Giáo theo lịch Julian, ngày này, tức ngày 1 tháng 1, được dành riêng cho Janus, là vị thần gác cửa và bắt đầu, người cũng được đặt tên là January. Là ngày trong lịch Gregorian của Thiên Chúa Giáo, Ngày Đầu Năm Mới đánh dấu là Lễ Đặt Tên và Cắt Quy Đầu của Chúa Jesus, mà vẫn còn được tuân theo trong Anh Giáo và Giáo Hội Tin Lành, theo Donald K. McKim trong “Dictionary of Theological Terms” do Westminster John Knox Press xuất bản năm 1996; và cũng theo John Henry Hobart trong tác phẩm “A Companion for the Festivals and Fasts of the Protestant Episcopal Church” do Stanford & Co. xuất bản năm 1840.

Hiện nay, với hầu hết các quốc gia đều đang sử dụng lịch Gregorian như là lịch thực sự của họ, Ngày Đầu Năm Mới nằm trong số những ngày lễ công cộng nhiều nhất trên thế giới, thường là với các cuộc đốt pháo bông vào nửa đêm khi năm mới bắt đầu tại mỗi vùng múi giờ.

Năm Mới 2021 đến trong hoàn cảnh tan thương của thế giới vì đại dịch Covid-19. Những cuộc tụ họp để đón mừng năm mới sẽ giảm thiểu tối đa. Mọi người chỉ đón năm mới trong nhà với số người rất hạn chế trong những người thân thích nhất. Trong bối cảnh ảm đạm như thế của những ngày đầu năm, có lẽ đọc thơ để ăn mừng tân niên cũng là một trong những cách giải khuây nhẹ nhàng. Vậy thì xin mời độc giả cùng đọc hai bài thơ của nhà thơ Phật tử người Mỹ William Stanley Merwin. Bài thứ nhất là “The Asians Dying” và bài thứ hai là “To the New Year.” Nhưng trước hết, xin giới thiệu về nhà thơ này.
 
Nhà thơ William Stanley Merwin
 
William Stanley Merwin là nhà thơ Mỹ đã sáng tác hơn 50 tác phẩm thơ và văn, và nhiều tác phẩm chuyển dịch, theo www.en.wikipedia.org. Trong phong trào chống chiến tranh của thập niên 1960s, các tác phẩm độc đáo của Merwin được đặc trưng bởi lối kể chuyện gián tiếp, không ngắt quãng. Trong các thập niên 1980s và 1990s, việc sáng tác của ông lấy cảm hứng từ triết lý Nhà Phật và sinh thái sâu sắc.

NAM MOI 2021 DOC THO TAN NIEN 02

Nhà thơ William Stanley Merwin. (www.tricycle.org


William Stanley Merwin sinh tại Thành Phố New York vào ngày 30 tháng 9 năm 1927. Ông đã trưởng thành nơi căn nhà ở góc đường Fourth Street và New York Avenue tại Union City, tiểu bang New Jersey cho đến năm 1936, khi gia đình ông dời tới thành phố Scranton thuộc tiểu bang Pennsylvania. Khi còn trẻ, Merwin đã say mê thế giới thiên nhiên, đôi khi thấy mình đang nói chuyễn với cây lớn bên sau vườn nhà. Ông cũng bị quyến rũ với nhiều thứ mà ông đã thấy như có liên hệ với đời quá khứ, như tòa nhà bên sau căn nhà của ông mà đã từng là một cái chuồng cho ngựa ở và để xe ngựa. Lúc 5 tuổi ông đã bắt đầu viết các bài thánh ca cho cha ông, là một mục sư giáo phái Presbyterian.

Sau khi vào Đại Học Princeton năm 1952, Merwin kết hôn với Dorothy Jeanne Ferry, và dời tới ở Tây Ban Nha. Trong thời gian ở đó, trong khi thăm viếng nhà thơ nổi tiếng Robert Graves tại nhà của nhà thơ này trên đảo Majorca, ông đã làm thầy dạy kèm cho người con trai của Graves. Ở đó, ông đã gặp Dido Milroy, người hơn ông 15 tuổi, là người mà ông đã hợp tác trong một vở kịch và ông đã kết hôn sau này rồi họ cùng nhau tới London để sống. Vào năm 1956, Merwin dọn về Boston để tham gia vào Nhạc Viện của Những Nhà Thơ. Ông đã trở lại London, nơi ông làm bạn với Sylvia Plath và Ted Hughes. Vào năm 1968, Merwin dọn về Thành Phố New York, ly thân với người vợ Dido Milroy, người đã ở tại căn nhà của họ tại Pháp. Vào cuối thập niên 1970s, Merwin dọn qua Hawaii và cuối cùng đã ly dị với Dido Milroy. Ông lấy Paula Dunaway làm vợ vào năm 1983.


Từ năm 1956 đến 1957, Merwin cũng viết kịch tại Nhạc Viện của Nhà Thơ tại Đại Học Cambridge ở tiểu bang Massachusetts. Ông trở thành chủ bút thơ của tạp chí The Nations vào năm 1962. Ngoài vai trò nhà thơ, ông còn là nhà phiên dịch văn học và thơ từ tiếng Tây Ban Nha, Pháp, La Tinh và Ý được kính trọng. Ông cũng dịch thơ từ tiếng Phạn (Sanskrit), Yiddhish (tiếng Đức cổ của người Do Thái ở Trung và Đông Âu), tiếng Anh thời Trung Cổ, tiếng Nhật và tiếng Quechua (tiếng của một nhóm ngôn ngữ tại một số nước Nam Mỹ như Peru, Bolivia, Chile, Colombia, và Ecuador). Ông đã đóng vai trò là người chọn thơ của nhà thơ người Mỹ Craig Arnold (1967-2009).

Merwin nổi tiếng với thơ về Chiến Tranh Việt Nam – như bài thơ “The Asians Dying” – và được nằm trong những nhà thơ về Chiến Tranh Việt Nam kinh điển như Robert Bly, Adrienne Rich, Denise Levertov, Robert Lowell, Allen Ginsberg và Yusef Komunyakaa, theo Gregg Mosson, trong tác phẩm “American Poetry: Vietnam and Today.”

Các chủ đề ban đầu của Merwin thường gắn bó với các chủ đề thần thoại hay huyền thoại, trong khi nhiều bài thơ của ông miêu tả các động vật. Tập thơ “The Drunk in the Furnace” xuất hiện vào năm 1960 đánh dấu sự thay đổi của Merwin, trong đó ông bắt đầu viết theo cách tự truyện nhiều hơn.
Vào thập niên 1960s, Merwin sống trong một căn chung cư nhỏ tại Khu Xóm Greenwich của Thành Phố New York.

Tác phẩm “Migration: New and Selected Poems” của Merwin đã đoạt giải National Book Award cho thể loại thơ vào năm 2005.

Vào năm 1998, Merwin viết cuốn “Folding Cliffs: A Narrative,” là cuốn tiểu thuyết thơ đầy tham vọng về lịch sử và huyền thoại của Hawaii.

Tác phẩm của Merwin “The Shadow of Sirius” được Copper Canyon Press xuất bản năm 2008 đã đoạt giải Pulitzer Prize về thơ vào năm 2009.

Vào tháng 6 năm 2010, Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ đã vinh danh Merwin là Nhà Thơ Hoa Kỳ thứ 17 để thay thế Kay Ryan sắp ra đi. Ông là đối tượng của cuốn phim tài liệu năm 2014 “Even Though the Whole World Is Burning.” Merwin đã xuất hiện trong phim tài liệu của Đài PBS về Đức Phật, đã được công chiếu trong năm 2010. Ông đã dời về Hawaii để học đạo với thiền sư Robert Aitken vào năm 1976.

Vào năm 2010, cùng với vợ là Paula, ông đồng sáng lập The Merwin Conservancy, tổ chức bất vụ lợi cống hiến cho sự bảo tồn căn nhà tự tay nhà thơ xây dựng và khu đất bảo tồn rộng 18 mẫu tây tại Haiku, Maui, mà đã được chuyển từ “đất nông nghiệp” sang “Noah’s Ark” với nhiều cây cọ hiếm có, là một trong những nơi sưu tập sinh học đa dạng của những cây cọ lớn nhất trên thế giới.

Tập thơ sau cùng của Merwin, “Garden Time” do Copper Canyon Press xuất bản năm 2016, được viết trong thời gian khó khăn vì ông bị mất thị lực. Khi ông không cón có thể nhìn thấy rõ để viết, ông đã đọc thơ cho người vợ, Paula, viết. Đó là cuốn sách nói về tuổi già và sự thực hành cuộc sống trong hiện tại của một người. Viết về cuốn sách “Garden Time” trên báo The New York Times, Jeff Gordinier cho rằng “Tác phẩm của Merwin giống như một phần của chuỗi liên tục bất tận nào đó, một dòng sông kéo dài từ Hàn Sơn và Lý Bạch.” Hàn Sơn là nhà thơ lớn ở thế kỷ thứ 9 của thời Nhà Đường và Lý Bạch cũng là nhà thơ lớn ở thế kỷ thứ 8 của thời Nhà Đường tại Trung Hoa.

Vào năm 2017, Nhà Xuất Bản Copper Canyon Press đã xuất bản tác phẩm “The Essential W. S. Mersin,” cuốn sách tập họp di sản 70 năm thơ của Merwin, bao gồm thơ văn đến các bản dịch của ông từ năm 1952 tới 2016.

Merwin đã sống trên một đồn điền trồng thơm hay khóm, nằm ở đông bắc của Maui thuộc tiểu bang Hawaii.

Merwin qua đời vào ngày 15 tháng 3 năm 2019, trong lúc ngủ tại nhà, như được loan báo bởi Nhà Xuất Bản Copper Canyon Press. Ông thưởng thọ 91 tuổi.

NAM MOI 2021 DOC THO TAN NIEN 03
Ánh sáng đầu ngày rọi xuống những chiếc lá. (www.pixabay.com)

Để tưởng nhớ nhà thơ William Stanley Merwin, xin mời độc giả đọc 2 bài thơ của ông. Trước hết là bài “The Asians Dying” [Người Á Châu Hấp Hối]. Bài này được trích từ trong tuyển tập thơ “The Second Four Books of Poems” do NXB Copper Canyon Press ấn hành vào năm 1993, được đăng trên trang mạng www.poetryfoundation.org.
 
Người Á Châu Hấp Hối
 
Khi núi rừng bị hủy diệt sự đen đúa của chúng còn lại
Tro người đi bộ vĩ đại theo sau những kẻ sở hữu
Vĩnh viễn
Chẳng có gì sẽ đến là thực
Cũng không lâu
Trên các nguồn nước
Như những con vịt trong thời của những con vịt
Những ma quỷ của những ngôi làng kéo lê trên bầu trời
Tạo ra hoàng hôn mới
 
Mưa rơi xuống những con mắt mở trao tráo của thây ma
Nữa và nữa với âm thanh vô nghĩa của nó
Khi mặt trăng bắt gặp chúng chúng là màu sắc của mọi thứ
 
Đêm biến mất như những vết thương nhưng không gì được chữa lành
Người chết ra đi như những vết thương
Máu biến mất vào ruộng đồng bị nhiễm độc
Đau đớn cả bầu trời
Những hài cốt
Trên đầu bốn mùa đu đưa
Chúng là những cái chuông giấy
Kêu réo mọi thứ đều chết
 
Những kẻ sở hữu di chuyển mọi nơi theo ngôi sao Tử Thần của họ
Giống như những cột khói chúng đi vào bóng tối
Giống như ngọn lửa mỏng không ánh sáng
Chúng không có quá khứ
Và chỉ đốt cháy tương lai
 
Bài thơ thứ hai của nhà thơ William Stanley Merwin mà tôi muốn giới thiệu với độc giả là bài “To the New Year.” Bài này đã xuất hiện vào năm 2005.

 
Sang Năm Mới
 
Với tịch lặng tận cùng
bạn có mặt trong thung lũng
ánh mặt trời đầu tiên rọi xuống
chạm vào đầu một ít
những chiếc lá trên cao không lắc lư
như thể chúng không để ý
và đã không biết cả bạn nữa
rồi tiếng của con chim bồ câu hót
từ xa thật là xa
tới sự im lìm của buổi sáng
 
như thế đây là âm thanh của bạn
ở đây và bây giờ dù có hay không
có ai đó nghe nó đây là
nơi chúng ta đã đến với tuổi tác
kiến thức của chúng ta như nó là
và những hy vọng của chúng ta như chúng là
vô hình trước chúng ta
không đụng chạm được và vẫn có thể
 
Một năm đi qua thật nhanh. Cuộc đời quả thật là vô thường. Và trong cõi vô thường thì thường là khổ, như lời Đức Phật đã nói cách nay hơn hai ngàn rưởi năm. Ở trong cộng nghiệp khổ của cõi này, con người vẫn có thể tạo dựng cho mình cuộc sống an lạc và giải thoát bằng sự thực hành thiền quán để tịnh tâm. Khi tâm tịnh thì thế giới sẽ tịnh.

Trong bài thơ Sang Năm Mới của Merwin, nhà thơ Phật tử này đã giới thiệu cho chúng ta một phương pháp để có được một năm mới bình an, tịch lặng và giải thoát. Đó là sự tịnh tâm sâu lắng tới mức có thể chiêm quan được khoảnh khắc hay đúng hơn là sát na vi tế và vi diệu để chứng kiến lúc tia sáng mặt trời đầu tiên của ngày mới đầu tiên của một năm vừa chạm vào đầu chiếc lá đứng yên không lay động. Cái khung cảnh đó là khung cảnh nằm trong trạng thái tâm thức lắng đọng và tịch lặng sâu thẳm.

Năm mới sẽ an lạc khi tâm thức tịch lặng. 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch...
Người viết chơi với Phạm Thiên Thư từ những năm học trung học đệ nhất cấp khoảng 58-59. Thư đến nhà tôi ở ấp Cả Trắc, khu Ông Tạ và chúng tôi thường kéo nhau ra quán cà phê vợt ở đầu ngõ đi vào ấp. Trong những lần uống cà phê, Thư nói sôi nổi về việc lập học hội Hồ Quý Ly, để thực hiện việc nghiên cứu, viết văn, làm thơ. Mục đích là tiến tới làm một tập san văn nghệ...
Chúng tôi vẫn biết Hoàng Cầm là người cùng quê và là bạn với một ông anh họ từ thời kháng chiến chống Pháp, nhưng không ngờ nhà thơ lại theo xe ra đón chúng tôi ở phi trường Nội Bài. Hôm đó Hoàng Cầm mặc một cái màu đỏ xậm trông rất hào hoa dù Hà Nội năm đó vẫn còn rất nghèo...
Mở đầu cho sê-ri bài viết về phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm thập niên 50 tại Bắc Việt Nam, là một tư liệu hiếm quý về/của nhà thơ Phùng Quán. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Nước Mỹ thế kỷ XX cống hiến cho nhân loại sự phong phú và đa dạng của các trào lưu, chủ đề và tiếng nói trong văn học. Một số tác giả và tác phẩm kinh điển đã xuất hiện trong thời kỳ này, góp phần phát triển truyền thống văn học có từ những thế kỷ trước. Riêng trong lĩnh vực tiểu thuyết, văn học hiện đại, thịnh hành vào đầu thế kỷ XX ở Châu Âu với kỹ thuật “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của James Joyce và Virginia Woolf, lan rộng sang Mỹ, tìm cách tách rời các hình thức truyền thống thế kỷ XIX để cách tân và hình thành một dòng văn học mới với phong cách độc đáo, táo bạo và mở ra những cánh cửa thú vị bất ngờ cho người đọc đi vào ngôi nhà nghệ thuật. Kỷ nguyên văn học hiện đại phương Tây bắt đầu từ hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX và, không thể nghi ngờ, Mỹ là quốc gia có những đóng góp to tát. Các tiểu thuyết gia lớn trong thời kỳ này, ta có thể nhắc đến F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway và William Faulkner.
Bước đi như vậy rõ ràng là không cần lưu dấu; nhưng chính là bước đi siêu tuyệt của bậc đại nhân, đại sĩ: không dấu tích mà lại tràn đầy công đức, lợi ích cho dân tộc, đạo pháp và nhân loại nhiều thế kỷ sau.
Một chương trong tiểu thuyết Đường Về Thủy Phủ của nhà văn Trịnh Y Thư...
Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ lớn của nước Việt trong thế kỷ 20. Ộng có địa vi cao cả trên thì văn đàn miền Nam và là người duy nhất được tôn xưng là thi bá...
Những phân đoạn này thuộc vào phần có tựa là “Dưới những gốc nho biển,” nằm trong tiểu thuyết “Đường về thủy phủ.” Tuy nhiên, cũng như phân đoạn [1-3] tôi đã nói ở trên, nó vẫn mang đủ những yếu tố của một truyện ngắn. Hẳn nhiên người đọc sẽ thấy rõ đây là dụng ý của tác giả. Và chỉ đến lúc đọc xong trọn “Đường về thủy phủ,” thì mới có một suy nghiệm tổng thể, và có thể bật ra cách ráp nối những mảnh hình, những sự kiện, và lóe sáng một sợi dây xuyên suốt tác phẩm qua bản chất của các nhân vật, để từ đó hiểu rõ hơn chủ đề của nhà văn Trịnh Y Thư...
Bùi Giáng qua đời tại Sài-gòn tháng 10-1998, tới tháng 10 năm này, 2023, đúng là 25 năm, một phần tư thế kỷ “Vắng bóng người Điên giữa kinh thành”. Trong tất cả các bút hiệu của Bùi Giáng, Sáu Giáng là tên hiệu dễ thương với mọi người, Bùi Giáng lại thích “anh Sáu Giáng” nhất; bởi/từ cái gốc gác quê mùa, đồi sim, ruộng lúa, tiếng gà trưa, con cò bãi nước xa, cái nền nhà lát gạch hoa, đứa con thứ sáu trong gia đình tộc Bùi, thằng bé Giáng tập bò tập đi.