Hôm nay,  

Viết Về Mẹ Trong Ngày Hiền Mẫu

11/05/202009:25:00(Xem: 4330)


Từ nghìn xưa cho tới nay, từ Đông sang Tây… hình bóng người mẹ cao quý, thiêng liêng, sự hy sinh vô bờ bến trong tình mẫu tử, với trái tim đầy nhân ái, cao cả đã in sâu trong lòng người con từ lúc sinh ra cho đến khi lìa đời. Hình bóng đó đã được thể hiện qua thơ, văn, nhạc và trong nhiều lãnh vực khác… không thể nào liệt kê hết trong bao nhiêu tác phẩm của nhân loại.

Hai nhạc sĩ lừng danh Robert Schumann cho rằng “Nhiệm vụ cao quý của âm nhạc là chiếu sáng vào những cõi sâu thẳm trong trái tim con người” và Antonio Rossini ca ngợi “Ngôn ngữ của âm nhạc là ngôn ngữ chung của tất cả mọi thế hệ và mọi dân tộc; ai cũng hiểu được nó, bởi nó được hiểu bằng trái tim”. Vì vậy âm nhạc dễ đi vào người mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh trong niềm vui lẫn nỗi đau.blank


Với hình bóng người mẹ trong thời chinh chiến, thế hệ chúng tôi phải
“Xếp bút nghiên theo việc đao cung” (Chinh Phụ Ngâm - Đặng Trần Côn & Đoàn Thị Điểm) không được gần gũi bên mẹ, nhất là trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc với nỗi niềm như ca khúc Xuân Này Con Không Về của Trịnh Lâm Ngân:

“Con biết bây giờ mẹ chờ tin con

Khi thấy mai đào nở vàng bên nương.

Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về,

Nay én bay đầy trước ngỏ mà tin con vẫn xa ngàn xa.

... Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm

Mái tranh nghèo không người sửa sang.

Khu vườn thiếu hoa vàng mừng xuân”.

Và, dù sống xung quanh thiên hạ có vui bao nhiêu nhưng niềm đau của mẹ khi thiếu người con, với nỗi nhớ thương lưng tròng nước mắt. Trong ca khúc Lá Thư Gởi Mẹ, nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ thơ của Thái Thủy viết thay cho những người lính chiến xa nhà:

“Mẹ ơi! thôi đừng khóc nữa

Cho lòng già nặng sầu thương.

Con đi say tình viễn xứ

Đâu có quên tình cố hương”.

Nghe ca khúc nầy với tiếng hát Hà Thanh khi xa mẹ, lòng quặn đau!

Hay ca khúc Thư Về Thăm Mẹ của Mạnh Phát trọn niềm nhớ mong:

“Mẹ ơi đã lâu rồi 

Con chưa về thăm mẹ và đàn em

Từng đêm biết mẹ buồn 

Nhưng đời trai nước loạn làm sao nguôi.

Bao nước sông là bao nhớ mong

Dù cho tháng năm cách mặt bận lòng

Con vẫn thương đàn em nhỏ bé 

Một bàn tay mẹ chăm sóc ngày đêm”.

Câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” với nhạc phẩm Lòng Mẹ của Y Vân rất phổ thông, ca khúc nầy thịnh hành hơn sáu thập niên qua.

“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào

Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào

Lời mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào

Tiếng ru bên thềm trăng tà soi bóng mẹ yêu

Lòng mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa thu

Tình mẹ yêu mến như làn gió đùa mặt hồ

Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ

Nắng mưa sớm chiều vui cùng tiếng hát trẻ thơ.

Thương con thao thức bao đêm trường

Con đã yên giấc mẹ hiền vui sướng biết bao

Thương con khuya sớm bao tháng ngày

Lặn lội gieo neo nuôi con tới ngày lớn khôn

Dù cho mưa gió không quản thân gầy mẹ hiền

Một sương hai nắng cho bạc mái đầu buồn phiền

Ngày đêm sớm tối vui cùng con nhỏ một niềm

Tiếng ru êm đềm mẹ hiền năm tháng triền miên”

Cùng tựa đề nhạc phẩm Lời Ru Của Mẹ của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng và nhạc sĩ Mặc Thế Nhân nhưng MTN với lời dựa vào dân ca:

“Con ơi con ơi, con ngủ ngủ đi con

Để mẹ đi mẹ gánh nước non cho đầy…

Con ơi con ơi, con ngủ ngủ cho say

Để mẹ đi gọi gió kéo mây cho trời…”.

Còn nhiều ca khúc viết về mẹ trong thời chinh chiến của các nhạc sĩ như: Thương Về Quê Mẹ của Trần Công Tấn, Lời Mẹ Khuyên của Thùy Linh, Mùa Xuân Của Mẹ của Trịnh Lâm Ngân, Giữa Lòng Đất Mẹ của Châu Kỳ, Mẹ Ơi của Trần Văn Lý, Huyền Thoại Mẹ của Trịnh Công Sơn, Xin Mẹ Thương Con của Giao Tiên & Đỗ Yến, Bông Hồng Cài Áo của Phạm Thế Mỹ, Xuân Về Với Mẹ của Nhật Ngân, Lối Về Đất Mẹ của Duy Khánh…

Nhạc sĩ Phạm Duy viết nhiều ca khúc về mẹ như Trường Ca Mẹ Việt Nam gồm 4 phần: Đất Mẹ - Núi Mẹ - Sông Mẹ - Biển Mẹ, Bà Mẹ Gio Linh, Mẹ Trùng Dương, Giọt Mưa Trên Lá; trong đó hình ảnh Bà Mẹ Quê:

“Mẹ quê, mẹ quê vất vất vả trăm chiềublank

Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu.

Bà bà mẹ quê, gà gáy trên đầu ngọn tre

Bà bà mẹ quê, chợ sớm đi chưa thấy về

Chờ nụ cười con và đồng quà ngon.

… Bà bà mẹ quê, dậy sớm không nề hà chi

Bà bà mẹ quê, ngày tháng không ao ước gì

Nhỏ giọt mồ hôi, vì đời trẻ vui”.

Tiếc rằng sau nầy ông về Việt Nam nếu yên vui với tuổi già thì hình ảnh nhạc sĩ tài hoa nầy với những tình ca bất hủ trong nền âm nhạc VN được người Việt hải ngoại ngưỡng vọng. 

Về ca khúc ngoại quốc, ca khúc Maman của nhạc sĩ Claude Carrère được Thanh Lan chuyển lời Việt và trình bày trước năm 1975, được mọi người ái mộ:

“Người mẹ hiền yêu dấu, mẹ đã trao về ta

Thật bao âu yếm trong những năm vừa qua.

Mẹ hiền có biết, khi lớn khôn ra đời,

Con sẽ nhớ hoài bóng dáng người…

Người mẹ hiền yêu hỡi, những lúc mẹ cười vui

Là mặt trời trên tóc mưa bão không còn rơi.

Mẹ hiền có biết, khi lớn khôn ra đời,

Con sẽ nhớ hoài bóng dáng người”.

Ca khúc Maman của nhạc sĩ Christophe được ghi âm trước năm 1975 nhưng ít thông dụng hơn.

Còn nhiều ca khúc viết về mẹ nhưng với những dòng nhạc trên đã in sâu trong lòng tôi vì ở đó, gắn bó với cuộc sống thời binh nghiệp.

*


Trong vài bài viết của tôi có nhắc đến hình ảnh người mẹ và với những dòng chia sẻ với tính cách gia đình của đứa con út cho thế hệ thứ hai, thứ ba để nhớ hình ảnh bà cố, bà nội, bà ngoại với trái tim, tấm lòng cao đẹp… đã ảnh hưởng sâu đậm cho các người chị của tôi.

Tuy không được may mắn sống gần mẹ vì học hành và đời quân ngũ nhưng tuổi thơ của tôi với mẹ với bao kỷ niệm thương yêu không bao giờ phai. Ngay cả các món ăn của mẹ cho đến bây giờ, ba mươi năm nơi xứ người, tôi vẫn thích, và mỗi khi có món ăn đó, tôi thướng nói “món mẹ cho ăn”.

Năm 1973, trước khi chào đón đứa con đầu lòng, tôi mời mẹ ở Hội An lên Đà Lạt, vì buôn bán hằng ngày đã quen với bạn hàng nên hai tuần lễ chưa có cháu nội, cụ không muốn đi dâu cả, chỉ than “Gớm, ở cái xứ gì mà buồn quá, nhà ai nấy ở, sao mà chịu nối!”, khi có đứa cháu nội, cụ vui khôn tả và bắt phải hơ than, ăn uống theo cách hướng dẫn của mẹ. Suốt đời của mẹ khi con cái sinh đẻ hầu như mẹ ở bên cạnh. Tôi là đứa út ít, thích lang bạt, lập gia đình, mẹ mừng lắm rồi, có đứa cháu nội nữa, mẹ đã toại nguyện.

Những ngày cuối cùng của tháng Tư năm 1975, tôi lang thang ở Vũng Tàu, không muốn ra đi vì chẳng biết vợ con ra sao và nghĩ đến mẹ khi bặt vô âm tín đứa con út sẽ đau khổ nhiều. Lúc đó mẹ tôi đã 75 tuổi.

Năm 1983, từ Đà Lạt về Hội An thăm mẹ và người thân trong gia đình, nghe anh chị kể lại, sau năm 1975, chỉ một tháng tóc mẹ bạc trắng, mẹ lúc nào cũng thẩn thờ vì chưa biết tin con…!

Mùa Hè năm 1990, khi gia đình tôi ở Sài Gòn đợi ngày phỏng vấn H.O 4, mẹ tôi qua đời, anh chị em bàn với nhau không báo tin cho tôi biết… Khi về Đà Lạt, đánh tin mừng cho thân nhân, rồi nhận được tin về quê. Khi về đến nơi thì than ôi! Thay vì nụ cười với nhau thì chan hòa nước mắt. Tôi làm lễ phục tang rồi khi ra đi khỏi nước, vợ và các con đều đeo băng tang trên ngực. Ở Sài Gòn, vài người khuyên không nên sẽ bị xui xẻo nhưng tôi bất chấp vì đó là đạo hiếu. Khoảng mười lăm năm trước, tôi đã viết lại nỗi đau đó.

Buổi sáng cuối tháng Tư năm 2006, ra quán cà phê Lily, tôi thấy anh Trạch Gầm ngồi một mình bên ly cà phê, tôi hỏi vì sao buồn vậy, anh cho biết mẹ anh vừa mất, tôi an ủi anh, hai đứa cũng rơi vào cảnh ngộ giống nhau khi mẹ qua đời mà không được nhìn nhau lần cuối. Tôi nói anh viết cho vài câu thơ.

“Bây giờ trong cõi hư vô ấy

Mẹ thảnh thơi rồi có phải không?

Giọt sầu mất nước giờ hóa đá

Mây nước quê hương cung lạc dòng!”

Ban ngày bận ở tòa soạn, đêm đó tôi viết một mạch đến khuya bài viết Thiên Chức Nhà Giáo, Tâm Hồn Nhà Văn: Bà Tùng Long, đúng vào ngày 1 tháng 5. Sau đó mọi người mới biết nhà giáo, nhà văn Bà Tùng Long là thân mẫu nhà thơ Trạch Gầm. Cảm nhận từ nỗi đau của bạn cũng như nỗi đau của bản thân nên viết trong sự xúc cảm. Trong bài viết nầy tôi chép lại 4 câu thơ của bạn tôi.

Trước đó và sau nầy khi nghe tin bạn bè trong hoàn cảnh mẹ mất ở quê nhà mà không về được, tôi liên tưởng đến bản thân mà lòng quặn thắt. 

“Lũ chúng tôi đầu thai nhầm thế kỷ” (Vũ Hoàng Chương) bởi trưởng thành trong cơn binh lửa, trai thời chiến, người đau khổ nhất là mẹ. Hầu như người mẹ VN chân chính nào cũng nghĩ đến con cái hơn bản thân mình. Mẹ đã mang nặng đẻ đau, lo từ giọt sữa cho con khi chào đời đến khi khôn lớn, lập gia đình… cho đến khi mẹ vào cõi vĩnh hằng. 

Hình ảnh mẹ thiêng liêng, cao quý không ai có thể nói hết. Với truyền thông dân tộc chúng ta không chỉ có một ngày tôn vinh Ngày Hiền Mẫu mà mỗi ngày suốt cuộc đời trong cõi đời ô trọc nầy.

May mắn thay với ai còn có mẹ.

Và. với những ai không còn mẹ, mượn ý thơ của bạn tôi, cầu mong “trong cõi hư vô ấy, mẹ thảnh thơi, mẹ yên nghĩ ngàn thu”. Mẹ không còn nhưng trái tim, hơi thở của mẹ trong con.

Little Saigon, Ngày Hiềm Mẫu 2020

Vương Trùng Dương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một buổi sáng nọ giữa tháng ba như mọi ngày người đàn ông gốc Việt cư ngụ nơi một thành phố miền Nam California ra khỏi nhà để đi bộ. Ông nhìn thấy một thế giới khác. Con đường không một bóng người qua lại. Xe cộ chỉ vài ba chiếc vụt qua rồi để lại một khoảng không trống rỗng. Thường ngày vào lúc đó con đường này đầy xe cộ và người đi bộ đưa trẻ em đến trường đi học. Hôm đó, ngay sau ngày, 19 tháng 3 năm 2020, Thống Đốc California ra lệnh người dân ở trong nhà và đóng cửa tất cả cơ sở kinh doanh không quan trọng, con đường này vắng hoe, im lặng, trống trải dị thường! Rồi những ngày sau đó, nhiều thành phố, nhiều tiểu bang tại Hoa Kỳ tuyên bố đóng cửa các cơ sở kinh doanh không quan trọng và những ai không có việc cần đi thì ở trong nhà. Nhiều nước trên thế giới cũng thực hiện cùng những biện pháp để chận đứng đà lây lan nhanh chóng không thể tả của đại dịch COVID-19, vốn phát xuất từ thành phố Vũ Hán thuộc tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc từ tháng 11 năm 2019. Cả thế giới chìm sâu vào kho
Chết tuy xa mà gần. Xa, vì chúng ta nghĩ rằng nó chỉ đến sau nầy mà thôi; gần vì nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Chết là điều cầm chắc, nhưng lúc nào là điều không ai có thể tiên liệu trước được. Khi giờ ra đi đã đến rồi thì không một lời lẽ nào có thể thuyết phục bắt nó phải chờ được, không một quyền lực nào đẩy lùi được nó, không có tiền của nào mua chuộc được, cũng như không có một sắc đẹp nào có thể rù quến nó được hết.
Bước vào năm con chuột, tìm đề tài liên quan đến con giáp nầy trong văn chương cho Giai Phẩm Xuân Canh Tý 2020 báo Saigon Nhỏ, mỗi năm tìm đề tài con giáp thích ứng cho giai phẩm hơi khó vì cứ 12 năm lại xoay vần, có nhiều bài viết trong quá khứ nên khó nhất là tránh sự trùng hợp.
Đại dịch COVID-19 phát xuất từ thành phố Vũ Hán thuộc tỉnh Hồ Bắc của Trung Quốc từ cuối năm 2019 đang hoành hành khắp thế giới gây khủng hoảng và lo sợ cho toàn thể nhân loại, với số lượng người bị lây và thiệt mạng vì vi khuẩn corona mỗi ngày mỗi gia tăng. Nhưng trong lịch sử của loài người đây không phải là cơn đại dịch đầu tiên mà đã nhiều lần xảy ra. Đặc biệt dấu vết và ấn tượng của những trận đại dịch kinh hoàng này vẫn còn nằm trong những tác phẩm văn học nổi tiếng thế giới từ thi hào Hy Lạp Homer thời cổ đại cho đến nhà văn Stephen King thời hiện đại. Trong nền văn học Tây Phương, từ sử thi Iliad của thi hào Homer trong thời cổ đại Hy Lạp và tuyển tập truyện Decameron của văn hào người Ý Giovanni Boccaccio trong thế kỷ 14 đến cuốn tiểu thuyết The Stand được xuất bản năm 1978 của nhà văn người Mỹ Stephen King và tiểu thuyết khoa học giả tưởng Severance được xuất bản năm 2018 của nữ văn sĩ người Mỹ gốc Tàu Ling Ma, tất cả đều có nói đến các trận đại dịch toàn cầu,
Chiếc áo đầu tiên quý giá nhất trong gia đình tôi là một chiếc “áo Vua ban.” Hồi ấy, ba tôi làm nghề cạo giấy và mẹ tôi buôn bán theo lối tài tử. Bà làm nghề mách mối mua bán đồ cổ. Ngoài ra, bà còn vác máy ảnh đi chụp cho các bà Hoàng, bà Chúa, bà Phi, bà Tần trong cung cấm. Nghề mách mối đồ cổ là một nghề rất nhàn. Bà chỉ việc diện bảnh, rẽ đường ngôi cho thẳng, bôi dầu dừa bóng loáng và thơm nức lên; chiếc quần cũng được là thẳng và xếp thành nếp, gọi là “xếp con”, năm con, bảy con gì đấy cho ra vẻ quý phái. Ăn mặc tề chỉnh như thế, bà chỉ việc đến nhà các mệnh phụ, công nương, ngồi lê đôi mách một vài buổi. Thế là “mệ” nào muốn bán cái gì, cụ nào muốn mua cái gì, mẹ tôi biết rõ cả. Bà chỉ việc vắt vẻo ngồi lên chiếc xe tay nhà, chạy đi chạy lại một vài lần, là kẻ mua người bán đều vui vẻ. Nghề chụp ảnh mấy chục năm về trước còn là một nghề rất mới mẻ, nhất là đối với các mệ, các bà Phi, Tần không thể ra ngoài phố tự do như người thường. Mẹ tôi: được các bà hoan nghênh vô cùng.
Giống như biến cố sụp đổ Bức Tường Bá Linh hay sự sụp đổ của công ty tài chánh toàn cầu Lehman Brothers, đại dịch vi khuẩn corona là sự kiện làm tan nát thế giới mà các hậu quả lâu dài của nó chúng ta chỉ có thể bắt đầu hình dung hôm nay, theo bài bình luận của nhiều nhân vật được đăng trên trang mạng www.foreignpolicy.com vào ngày 20 tháng 3 năm 2020 cho thấy. Điều rất chắc chắn rằng là cơn đại dịch này ngoài việc làm đổ vỡ cuộc sống, làm gián đoạn các thị trường và phô lộ ra năng lực của các chính phủ, nó còn dẫn tới nhiều thay đổi vĩnh viễn trong quyền lực chính trị và kinh tế theo những cách sẽ hiển nhiên về sau này. Sau đây là một số nhận định và tiên đoán từ những nhà chiến lược hàng đầu trên thế giới đối với trật tự toàn cầu sau đại dịch corona. Một thế giới ít cởi mở, ít thịnh vượng và ít tự do hơn. Theo Stephen M. Walt, giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại Học Harvard, cho rằng đại dịch corona sẽ củng cố chủ nghiã quốc gia và chủ nghĩa dân tộc.
Cách đây hai hôm (Chủ Nhật 28/9/2020), trang mạng Diễn Đàn Thế Kỷ có đăng hai bài viết đặc biệt liên quan đến Đại Dịch, bài Nguyễn Du – Homère và Bệnh Dịch của Phạm Trọng Chánh, và Đại Dịch COVID – 19 của Trịnh Y Thư. Trong bài của Phạm Trọng Chánh, phần sau có nhắc đến trận dịch tể xẩy ra từ thời cổ đại qua sử thi của thi hào Homère trong trường ca Iliad. Cả 1100 chiến thuyền và 100,000 quân sĩ vây quanh thành Troie bị thiệt mạng vì trận dịch kinh hồn. Phần trước chỉ ngắn ngủi mấy câu lại gây xúc động nơi tôi hơn khi nói đến trận dịch gây nên cái chết của thi hào Nguyễn Du của chúng ta.
Sáng tạo nghệ thuật trong suốt tập thơ dầy 338 trang gồm 123 bài, Trần Yên Hòa đã hình dung được hình tượng, phác họa ra chữ nghĩa vọng âm như một tiếng thở dài. Bài thơ Khúc Tôi mở đầu trang thơ cho tới bài Tạ ở cuối tập, đã là một tiếng thở dài.
Nhà văn Ngô Thế Vinh sinh năm 1941 tại Thanh Hoá, nguyên quán Hà Nội. Ông tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn năm 1968, từng là tổng thư ký rồi chủ bút báo sinh viên “Tình Thương” của trường Y khoa Sài Gòn từ 1964 tới 1967. Khi gia nhập quân đội VNCH, ban đầu Ngô Thế Vinh làm bác sĩ quân y của Liên đoàn 81 Biệt cách Dù. Sau đó ông đi tu nghiệp ngành Y khoa Phục hồi tại Hoa Kỳ, về nước ông làm việc tại Trường Quân Y Sài Gòn.
Nằm nhà rảnh rỗi suốt những ngày đại dịch Coronavirus Disease-2019 (COVID-19) hoành hành khắp nơi trên thế giới, tôi lại kệ sách lấy xuống cuốn tiểu thuyết La Peste của Albert Camus đọc lại, và sau khi đọc tôi bỗng giật mình vì những gì đang xảy ra quanh tôi ngày nay đã được Camus miêu tả thật chính xác cách đây trên 70 năm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.