Hôm nay,  

Nguyễn Mạnh An Dân: Tiếng Thét Trước Tệ Nạn

17/02/202012:37:00(Xem: 3492)


Mồng 5 Tết Canh Tý 2020, một người bạn viết lách bên Houston điện thoại qua nói đương tụ họp bạn bè làm lễ trăm ngày cho Nguyễn Mạnh An Dân. Lạ quá, như một thần giao cách cảm, lúc đó cái tựa bài mới vừa được đánh máy xong trên computer, người viết đương nhẫm trong trí coi mình sẽ viết gì về bạn văn nầy. Không có đầy đủ tác phẩm của anh, nghĩ rồi lúc nào đó cũng sẽ thủ đắc được thôi nên chỉ mới làng nhàng viết được mấy dòng, còn đương tìm ý. Lời báo tin khiến tôi hăn hái hơn trong việc hoàn thành dự định viết về một người thơ mới mất. Những đóng góp văn chương trước đó của anh rất có ý nghĩa, nói gì về anh cũng là đem về sự công bình cần thiết cho người sanh ra đã lỡ cầm trong tay lá bài xấu.

blank


Nguyễn Mạnh An Dân là một người viết văn dấn thân, anh viết về những điều đáng viết khi nhìn chuyện xấu xa ngoài xã hội. Anh chắc lọc đề tài, cẩn thận trau chuốt lời để tạo nên những đoạn văn trơn tru, gợi cảm, đánh vào lòng người đọc. Được hỏi tại sao viết ít và chậm, anh cười nhẹ, từ tốn trả lời bằng cái nhún vai và đưa hai tay xòe ra trước ngực rất Mỹ đại ý rằng đi làm suốt ngày để kiếm cơm, mệt nhọc, thường suy nghĩ về đề tài và bố cục khi đương lái xe, viết văn thì lúc nầy một chút lúc kia đôi ba đoạn. Còn thơ thì tuông ra nguyên bài, có khi hai ba bài một lần, nhưng thiên hạ đã phóng thơ ra nhiều quá khiến mình cũng ngài ngại làm thơ. Ý tưởng thì anh em thường trùng vì ai nấy đều đau đáu trước nỗi đau thương của dân tộc. Mình phải chọn cách nào cho khác biệt về kỹ thuật, may ra. Đời sống xứ người có những bận rộn cơm áo không chừa bao nhiêu thời giờ cho việc viết vì viết lách ở ngoài nước không là một nghề để kiếm cơm. Anh nhấn mạnh đến chữ kỹ thuật

Điều giải bày trên không mới, biết bao nhiêu người viết đã làm như vậy, đã suy nghĩ như vậy. Có người đã đánh vật suốt đời với câu cú, với chấm (.) phết (,) đấu hỏi (?) dấu than (!) xuống hàng trong trường hợp bất ngờ nhứt, kể cả sử dụng từ khác với tính chất của chúng bấy lâu nay để mang một ấn tích khác thường cho thơ mình.

Mọi tìm kiếm đều có giá trị cố gắng đáng trân trọng và bổ xung tri thức trong ngành. Những đón nhận của người đời lại là một chuyện khác. Có thể hân hoan có thể hững hờ...

Nguyễn Mạnh Dạn là tên khai sanh của anh. Ra đời năm 1948, tại Bình Định. Nhập ngũ khi chưa xong Đại Học, làm sĩ quan cấp thấp cho tới ngày tàn cuộc chiến, đi tù gần chục năm. Qua được đất nước Tự Do liền cầm ngay cây bút. Có tên trong vài tác phẩm chung với nhiều bạn cùng chí hướng. Riêng anh có:

Hai tập truyện

Người Lính Không Có Vũ Khí, Làng Văn, Canada, 1995. 

Cử Đầu Vọng Minh Nguyệt, Làng Văn, Canada, 2000. 

Một tập thơ

Tiếng Thét, Anh Em, Na Uy, 2000.

Truyện anh thường lấy bối cảnh người lính VNCH, những người vì dân, vì bổn phận trai trong thời chiến mà cầm súng. Truyện thường mang tính bi đát của sự chiến đấu thiếu cân xứng của bên thua cuộc, yêu nước, hào hùng nhưng không đủ vũ khí đạn dược vào giờ chót. Không khí ngậm ngùi độc giả cảm nhận dầu chưa đọc hết truyện. Ngậm ngùi khi biết rằng những người hào hùng đó rồi sẽ chết, sẽ bị tù đày. Ngậm ngùi khi thấy những tình yêu đẹp đẽ được chăm chúc rồi sẽ trở thành ảo mộng do thời cuộc. Ngậm ngùi khi thấy một đơn vị nhỏ cố giữ vững vị trí nhưng cuối cùng không thể được vì biết bao nhiêu ‘đích thân’ đã tan hàng trước tiên. Nguyễn Mạnh An Dân là chứng nhân và có trí nhớ tốt - người lính chết tức tưởi, cô gái người yêu của anh mới vừa được nói chuyện với anh trên máy truyền tin thì đã thành người cô phụ sau đó không lâu. Truyện anh trung thực, dễ đọc, đáng tin rằng cường độ hư cấu không nhiều.

Tuy vậy tôi thích tập thơ của anh hơn. Có điều gì đó hấp dẫn trong Lời Tựa:

Tập thơ nầy tôi làm trong hai trại An Dưỡng và Tân Hiệp, Biên Hòa, được chép lại tại Sungei Besi, Mã Lai.  Tôi đã đặt trên nó là Tiếng Thét Từ Trái Tim… Tiếng Thét ấy của nhiều người, trong và ngoài trại giam. Có người gọi đây là thơ tù… Việc người tù làm thơ cũng chẳng có gì mới lạ. Vấn đề là ở chỗ vì sao đi tù và bao nhiêu người trong cả nước đi tù. (NVS in chữ đậm.)

Chắc ai cũng chú ý đến chữ vì sao và bao nhiêu.

Chữ Vì sao dẫn đến câu trả lời: Chế độ họ như thế nên họ phải cho người khác phe đi tù sau khi thắng trận với ngoại viện thiệt nhiều và vô số dối gian. Thế thôi, chuyện chẳng có gì khó hiểu. 

Chữ Bao nhiêu sẽ đi đến cái thở dài não nuột thay vì là những con số vô hồn. 

Đi tù đương nhiên sẽ một số người làm thơ, cách nầy hay cách khác, lý do nầy hay lý do khác. Ra tù có người nhớ người quên những bài thơ mình đã chắt chiu ghi vào tim gan, não bộ. Có người muốn phổ biến, người không. Kể vài trường hợp phổ biến dầu phải mất một thời gian lâu sau khi ra tù: 

Nguyễn Sỹ Tế: Khúc Hát Gia Trung, Edition Emn, Bonn Germany, 1994.

Tuyết Sơn Nguyễn Văn Thu: Bạch Hoa, Vina, Seattle USA, 2019.

Thơ anh là bức tranh xã hội với những chấm phá ít oi trên khung vải rộng, cũng không được trét màu quá đen tối hay quá đậm nét, những nét cọ nhè nhẹ với gam màu lờn lợt nhưng tạo được rung cảm, xót xa cho khách thưởng ngoạn.

Người cha trong tù cảm nhận tương lai đen tối của những đứa con mình khi bị cấm cửa tới trường. Những đứa trẻ khác may mắn hơn chút ít, được đi học thì học được những điều dối trá từ trên đưa xuống như thiên đàng, ấm no, lao động cho con cháu muôn đời sau:

Bé thơ khăn đỏ 

cổ quàng

học bài xã hội 

thiên đàng đẹp tươi

Lao động 

bằng năm bằng mười

Ấm no con cháu 

muôn đời về sau?!

(Khăn)

Nguyễn Mạnh An Dân làm thơ rất ít khi chấm, phết ở cuối hàng, vậy mà ở đây anh dùng một lần cả dấu than và dấu hỏi (?!) một chỗ. Hai dấu nầy nói giùm tác giả rất nhiều về sự không tin tưởng lẫn ngờ vực tới chán nản của mình.

Đó là trẻ nhỏ, người lớn cũng chẳng khác gì hơn: Làm việc, làm việc cho những khẩu hiệu, cho những bằng khen tiên tiến, để rồi nhìn lại mình chỉ còn là những bộ xương biết đi.



nhà nước kế hoạch

triển khai

Mỗi người làm việc 

bằng hai sức người

vàng sao rực đỏ cờ tươi 

bóng che 

những bộ xương

 phơi giữa đồng

(Xương)

Và biết bao nhiêu cô phụ bị gạt gẩm, phỉnh phờ bằng những lời hứa không bao giờ được giữ lời để thực hành:

Nghe nói 

nhiều lần phải tin 

đi Kinh Tế Mới 

để xin tha chồng 

Cả đời 

chỉ biết thật lòng 

làm sao em hiểu 

người 

không giống mình?  

(Người)

Vậy đó mọi người, già trẻ bé lớn đều được mớm bằng ảo mộng, ảo mộng vì bị lường gạt. Nguyễn Mạnh An Dân nói giùm người dân về cú bị gạt vô cùng lớn đó: Mọi người, không chừa ai, đều mắc mưu. Và nếu có biết cũng nín thinh, hi vọng mình được phần hên, bị gạt ít …

Phần đầu tập thơ là những chấm phá về xã hội VN mấy mươi năm đầu sau khi chế độ VNCH bị xụp đổ. Mỗi bài là bốn câu lục bát xuống dòng thành tám hàng với cái tựa chỉ độc một chữ lẻ loi. Vậy mà 29 chữ đó tả và gợi rất nhiều điều…

Anh dùng loạt những bài thơ ngắn nầy nói về thực trạng khổ ải của người dân Việt sống trong nhà tù cũng như bên ngoài xã hội. Nhà thơ nói gián tiếp hay trực tiếp. Thường là gián tiếp vì thơ anh có ít chữ mà mục tiêu hướng về thì nhiều, phải để cho người đọc trôi theo trí tưởng tượng của mình, từ đó họ khám phá lại những điều đã thấy, đã nghe, nhưng bị quên đi vì đã trở thành thường tình, giờ đọc thơ mới nhớ lại rằng mình vô phước.

Tôi gọi cách thế nầy của ý thơ Nguyễn Mạnh An Dân là cách viết của thơ Đường: chữ ít, gợi nhiều.

Chẳng hạn:

Sửa:  Người mẹ còn đói ăn lâu ngày lấy đâu có sửa nuôi con.

Sách: Trẻ thơ còn mấy cuốn sách cũng bị chiến dịch đốt sách tác hại.

Thuốc: Tù nhân được nhỏ mũi vài giọt nước tỏi trừ bịnh.

Họa: Họa cái điều cần tô hồng trong khi thực tế lại quá đen

Mê: Người ngủ gầm cầu nằm mê thấy tương lai tươi sáng.

Cãi: Bị can cãi cũng vô ích vì khung tội đã được làm sẵn, quan tòa chỉ phán thuộc lòng.

Lợi: Dân oằn mình dưới những nghĩa vụ. Đảng muốn như vậy dân phải chịu thôi.

Mấy chục bài lục bát xuống dòng của Nguyễn Mạnh An Dân đều như vậy. Người thi sĩ chứng nhơn nhìn thấy những chuyện trái lòng, những hành động kỳ dị, anh động tâm rồi tìm ra một vài chi tiết nho nhỏ để làm thông số cho những điều độc giả sẽ nghĩ hộ anh sau đó.

Anh là chứng nhơn vì anh đã thấy đã ghi lại. Rồi đây người lớp sau sẽ theo đó đánh giá thời đại chúng ta đương sống ngày nay, đánh giá những người có trách nhiệm về những xấu tốt đó.

Xin thêm một bài loại nầy mà tôi thấy rất hay, cảm động như xoáy vô tim:

Sư cụ 

vừa tụng kinh xong

nhìn ra khắp xóm 

bếp không khói chiều 

trầm tư 

chợt thấy một điều

Niết Bàn xa quá 

buồn hiu đời này

(Đời)

Trước đây lục bát xuống dòng, hay lục bát ngắt câu đã có người thử nghiệm rồi. Không ăn khách lắm nên thi sĩ chỉ làm vài ba chục bài, ít có trường hợp thực hiện cả bảy mươi bài như Nguyễn Mạnh An Dân. Anh xứng đáng là đệ tử thuần thành của thể loại lục bát xuống dòng.

Thiệt ra nhìn cho cùng lục bát xuống dòng không phải mới mẻ gì, chỉ tại chúng ta quen với cách nhìn 6, 8 do người đi trước trình bày có khoảng cách trong thơ bằng chữ Nôm nên ngỡ là luật bắt buộc phải xuống dòng. Từ đó có sự phân cách hai câu 6, 8 trong chữ quốc ngữ. (Sau nầy ở trong Nam loại truyện thơ bình dân viết bằng lục bát, để khỏi tốn giấy người ta in liền một hàng cả hai câu 6 và 8. Và vẫn được chấp nhận, chẳng ai phản đối gì.

Nghiên cứu sự ngắt câu trong thơ Đoạn Trường Tân Thanh người ta thấy  nhiều cách, như tiểu đối 3/3 - 4/4, như ngắt đoạn từng cặp hai chữ 2/4 - 4/4, như 4/2 -2/6… Chỉ việc xuống dòng những trường hợp nầy thì ta có lục bát xuống dòng kiểu Nguyễn Mạnh An Dân. 

Phần hai, ba của tập thơ là những câu hỏi để  tác giả trình bày thực trạng của chế độ mới: Nói một đường làm một đường khác đối nghịch, biến người dân thành những hình nộm, nói như vẹt, bỏ những điều tốt thiên lương để làm điều xấu  mong được sinh tồn.

Tất cả tập thơ là Tiếng Thét bất bình của người bất bình biết quan sát và biết sống xứng đáng là mình. Our lives teach us who we are. (Salmon Rushdie). Trong tù không thấp hèn bợ đỡ, ngoài tù mở mắt để thấy và lên tiếng báo động về sự hiện diện của một xã hội xuống cấp. Được tự do không quay mặt lại với những gì mình đã thấy trước kia.

Đó là nhà thơ dấn thân cho tới cuối đời như bao nhiêu nhà thơ hải ngoại khác.

Trước khi chấm dứt, nghĩ rằng cũng nên ghi lại mấy câu thơ xưa viết theo thể 7 chữ trong một bài thơ có nhiều khổ, nhưng nếu được viết lại theo cách xuống dòng thì chắc là cảm xúc của người đọc tăng lên thập bội: (Trúc Khanh: Bài thơ Mà Đời Đâu Phải…? trong Tạp văn Việt Nam Hồn, phụ trương Nguồn Sáng, Sàigòn, 1948.)

Hởi ôi! 

Thương nữ mà vong quốc. 

Thì đã đành rồi! 

Đến lũ trai.

Cũng chẳng hơn gì 

loài 

đĩ điếm.

Ăn ngon 

mặc đẹp 

lại… 

Than ôi!

Vậy thì sự xuống dòng cũng có giá trị gợi cảm của nó, miễn là người làm thơ biết chỗ cần phải xuống dòng. 

Mấy câu thơ của Nguyễn Hàn Chung trên fb gần đây khi bài viết nầy khép lại cũng nên đưa vô đây để thấy lục bát cách tân – một dạng khác của lục bát xuống dòng - có giá trị tạo được cảm xúc mạnh khi người thi sĩ muốn điều nầy.

Yêu đi, thà lỡ yêu lầm

anh, hơn hoang phế trăm năm, uổng gì!

Về trường hợp cuộc đời của Nguyễn Mạnh An Dân, và những trường hợp tương tợ: dở dang việc học, đi lính, đi tù, đến xứ tự do chậm, lỡ cầm những lá bài xấu trên tay nhưng họ đã chơi rất khéo léo. “Life is not always a matter of holding good cards, but sometimes, playing a poor hand well.” – Jack London. 

Họ đã hạ xuống rất hay những cây bài xấu để thắng vì đã biết đau nỗi đau của người đồng chủng trong thời đại Đồ Đểu. Họ đã lên tiếng và lên tiếng lớn, trường kỳ.


CA, Tháng Giêng, Canh Tý 2020, mồng 5-r ằm.


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà hiền triết người Ấn Độ Jiddu Krishnamurti (1895-1986) qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 1986 tại Ojai Valley, Quận Ventura, Nam California, Hoa Kỳ, nơi ông đã chọn làm quê hương thứ hai từ năm 1922 cho đến khi ông mất, dù ông không ở đó thường trực. Tính đến tháng 2 năm nay, 2024 đã tròn 38 năm kể từ ngày ông lìa bỏ trần gian. Krishnamurti là một trong những nhà hiền triết có sức ảnh hưởng rất lớn đối với nhân loại trong thế kỷ 20. Cuốn “The First and Last Freedom” của ông được Giáo sư Phạm Công Thiện dịch sang tiếng Việt từ trước năm 1975 ở Sài Gòn với tựa đề “Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng” là một trong những cuốn sách tôi rất yêu thích đọc từ thời còn niên thiếu. Nhân tìm đọc lại một số bài giảng và bài viết của Krishnamurti, tôi tình cờ gặp được bài thơ “Song of the Beloved” (Bài Ca Về Người Yêu), nhưng không thấy ghi ông đã làm từ bao giờ. Có lẽ bài ca này ông làm vào những lúc về nghỉ ngơi tịnh dưỡng ở Ojai, vì bài đó nói lên lòng yêu thích thâm thiết của ông đối với thiên nhiên,
Ngô Thế Vinh là một tên tuổi đã thành danh ngay từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Ông đoạt Giải Văn Học Nghệ Thuật VNCH năm 1971 với tác phẩm Vòng Đai Xanh. Sau này ông có thêm hai giải thưởng: 1) Giải Văn Học Montréal 2002 Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và 2) Giải Văn Việt Đặc Biệt 2017 với Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch...
Người viết chơi với Phạm Thiên Thư từ những năm học trung học đệ nhất cấp khoảng 58-59. Thư đến nhà tôi ở ấp Cả Trắc, khu Ông Tạ và chúng tôi thường kéo nhau ra quán cà phê vợt ở đầu ngõ đi vào ấp. Trong những lần uống cà phê, Thư nói sôi nổi về việc lập học hội Hồ Quý Ly, để thực hiện việc nghiên cứu, viết văn, làm thơ. Mục đích là tiến tới làm một tập san văn nghệ...
Chúng tôi vẫn biết Hoàng Cầm là người cùng quê và là bạn với một ông anh họ từ thời kháng chiến chống Pháp, nhưng không ngờ nhà thơ lại theo xe ra đón chúng tôi ở phi trường Nội Bài. Hôm đó Hoàng Cầm mặc một cái màu đỏ xậm trông rất hào hoa dù Hà Nội năm đó vẫn còn rất nghèo...
Mở đầu cho sê-ri bài viết về phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm thập niên 50 tại Bắc Việt Nam, là một tư liệu hiếm quý về/của nhà thơ Phùng Quán. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Nước Mỹ thế kỷ XX cống hiến cho nhân loại sự phong phú và đa dạng của các trào lưu, chủ đề và tiếng nói trong văn học. Một số tác giả và tác phẩm kinh điển đã xuất hiện trong thời kỳ này, góp phần phát triển truyền thống văn học có từ những thế kỷ trước. Riêng trong lĩnh vực tiểu thuyết, văn học hiện đại, thịnh hành vào đầu thế kỷ XX ở Châu Âu với kỹ thuật “dòng ý thức” trong tiểu thuyết của James Joyce và Virginia Woolf, lan rộng sang Mỹ, tìm cách tách rời các hình thức truyền thống thế kỷ XIX để cách tân và hình thành một dòng văn học mới với phong cách độc đáo, táo bạo và mở ra những cánh cửa thú vị bất ngờ cho người đọc đi vào ngôi nhà nghệ thuật. Kỷ nguyên văn học hiện đại phương Tây bắt đầu từ hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX và, không thể nghi ngờ, Mỹ là quốc gia có những đóng góp to tát. Các tiểu thuyết gia lớn trong thời kỳ này, ta có thể nhắc đến F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway và William Faulkner.
Bước đi như vậy rõ ràng là không cần lưu dấu; nhưng chính là bước đi siêu tuyệt của bậc đại nhân, đại sĩ: không dấu tích mà lại tràn đầy công đức, lợi ích cho dân tộc, đạo pháp và nhân loại nhiều thế kỷ sau.
Một chương trong tiểu thuyết Đường Về Thủy Phủ của nhà văn Trịnh Y Thư...
Vũ Hoàng Chương là một nhà thơ lớn của nước Việt trong thế kỷ 20. Ộng có địa vi cao cả trên thì văn đàn miền Nam và là người duy nhất được tôn xưng là thi bá...
Những phân đoạn này thuộc vào phần có tựa là “Dưới những gốc nho biển,” nằm trong tiểu thuyết “Đường về thủy phủ.” Tuy nhiên, cũng như phân đoạn [1-3] tôi đã nói ở trên, nó vẫn mang đủ những yếu tố của một truyện ngắn. Hẳn nhiên người đọc sẽ thấy rõ đây là dụng ý của tác giả. Và chỉ đến lúc đọc xong trọn “Đường về thủy phủ,” thì mới có một suy nghiệm tổng thể, và có thể bật ra cách ráp nối những mảnh hình, những sự kiện, và lóe sáng một sợi dây xuyên suốt tác phẩm qua bản chất của các nhân vật, để từ đó hiểu rõ hơn chủ đề của nhà văn Trịnh Y Thư...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.