Hôm nay,  

Tưởng Nhớ Nhà Văn Nguyễn Thị Vinh (1924-2020)

11/01/202000:27:00(Xem: 6554)

Ng Thi Vinh



Nhà văn Nguyễn Thị Vinh, nhân vật cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn vừa qua đời ngày 8 tháng 1 năm 2020 tại Na-Uy. Hưởng thọ 97 tuổi.

Trong bài phỏng vấn của Mặc Lâm, phóng viên đài RFA ghi nhận:

“Từ năm 1932 đến năm 1945, Tự Lực Văn Đoàn chiếm một vị trí ưu thế tuyệt đối trên văn đàn Việt Nam và đã ảnh hưởng sâu sắc đến giới thanh niên và trí thức Việt lúc bấy giờ.

Bà Nguyễn Thị Vinh, 1 trong 3 thành viên cuối cùng của Tự Lực Văn Đòan. Năm 1933 Tự Lực Văn Đòan chính thức thành lập gồm có: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ) về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu, và còn một số nhà văn cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này là: Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ…

Bà Nguyễn Thị Vinh sinh năm 1924 tại Hà Nội. Quê nội: làng Thịnh Đức thượng Hà Đông. Quê ngoại: làng Vân Hoàng, Hà Đông. Đã xuất bản nhiều tác phẩm tiêu biểu, gồm truyện ngắn, truyện dài, thơ và tùy bút…

Trước năm 1975 bà giữ chức Chủ Bút và Chủ Nhiệm 2 tạp chí văn nghệ: Tân Phong và Đông Phương. Bà cũng là thành viên của Hội Đồng Giám Khảo Giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc VNCH. Hiện đang tỵ nạn chính trị tại Na-Uy, bà tiếp tục hoạt động văn học trong vai trò Chủ Mhiệm tạp chí văn nghệ Hương Xa. Và là thành viên trong nhóm chủ biên nhà xuất bản Anh Em”.

Trong cuộc phỏng vấn nầy, nhà văn Nguyễn Thị Vinh cho biết:

“Ba thành viên lớp sau (hay đúng hơn, phải gọi là ba thành viên dự bị) của Tự Lực Văn Đoàn, gồm nhà văn Duy Lam, nhà văn Tường Hùng và tôi đều do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lựa chọn, tại Sài Gòn vào khoảng đầu thập niên 1950.

Văn bản với bút tích của nhà văn Nhất Linh hiện do tác giả Nguyễn Tường Thiết, con trai út của nhà văn Nhất Linh lưu giữ. Trước đó, trong một bài thơ mang tên Tự Lực, Nhất Linh viết vào lúc 2 giờ sáng Mùng Một Tết năm Quý Tỵ, nhằm ngày 14 tháng 2 năm 1953, ông đã ghi:

“Tự Lực vườn văn mới trội tên. Bỗng dưng thời thế đảo huyên thiên. Thương dăm lá cũ vừa rơi xuống. Mừng mấy mầm tươi vụt nhú lên. Mạch cũ, nhựa non rồn rập chảy. Vườn xưa, hoa mới điểm tô thêm. Người qua, sách mọt, đời thay đổi. Tự Lực, danh chung, tiếng vẫn truyền”.

Tác phẩm đầu tay là Hai Chị Em, Truyện ngắn, NXB Phượng Giang, Việt Nam Sài Gòn 1953. Tác phẩm cuối cùng là Cỏ Bồng Lìa Gốc, Tuỳ bút/Tâm cảm, NXB Anh Em, Hoa Kỳ San José 2005.

Tự Lực Văn Đoàn gây ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài đối với đa số thanh niên nam, nữ thị dân theo Tây học và chữ Quốc Ngữ, từ Bắc tới Nam, về các mặt tư tưởng, văn hóa, xã hội..

a/ Trước hết phải kể tới tinh thần tự lực từ cá nhân, gia đình cho tới xã hội. Không có tinh thần tự lực thì quốc gia không thể giành được nền độc lập toàn vẹn, đúng nghĩa.

b/ Giữ gìn truyền thống mỹ tục. Đả phá mọi hủ tục.

c/ Nêu cao tinh thần khoa học thực nghiệm. Bài trừ thói mê tín dị đoan.

d/ Chống nạn mù chữ. Phổ biến và nghệ thuật hóa việc dùng chữ Quốc Ngữ.

e/ Hướng đến một cuộc cách mạng, tạm gọi là “Cách mạng Tư sản”, trên nền tảng Chủ nghĩa Tam Dân: “Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do, Dân Sinh Hạnh Phúc.”

Cho nên từ “ngôi nhà ánh sáng”, tới chiếc “áo dài LeMur”, “thơ Mới”, “tiểu thuyết luận đề”, “đảng Hưng Việt”, đến báo chí “Phong Hóa”, “Ngày Nay” và “Văn Hóa Ngày Nay”… Tranh khôi hài “Lý Toét, Xã Xệ”… đã làm nên tính cách Tự Lực Văn Đoàn, một văn đoàn vì Quốc Gia Dân Tộc.

Hai nhà văn Duy Lam và Tường Hùng vẫn sáng tác, sinh hoạt văn nghệ. Phần tôi, hoạt động văn nghệ không nhân danh Tự Lực Văn Đoàn. Vì tự nghĩ: Tự Lực Văn Đoàn đã làm xong nhiệm vụ lịch sử kể từ sau sự tuẫn tiết của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.

Tôi biết ơn Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng mọi vấn đề của nhà văn ngày hôm nay, đầu thế kỷ 21, đã khác với đầu thế kỷ 20. Chỉ còn tinh thần tự lực là mãi mãi nguyên vẹn cho cả nhà văn lẫn người đọc Việt Nam.

Văn học Nghệ thuật chuyên chở tình yêu nước, thương dân, với phương châm: “Muốn cánh sinh phải tự lực từ cá nhân, gia đình và xã hội, đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí.”

Văn học Nghệ thuật chuyên chở tình Yêu Nước, Thương Dân, với phương châm: “Muốn Cánh sinh phải Tự lực từ cá nhân, gia đình và xã hội, đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí.”

Quốc thể muốn tự lực, dân trí phải nâng cao. Muốn dân trí nâng cao phải có Tự Do Tư Tưởng, Tự Do Ngôn Luận. Làm giàu và làm đẹp thêm cho Tiếng Việt.

Tôi xin phép được thêm vào hai chữ “cộng sản” trong cụm từ “nhà nước Việt Nam”, để cho rõ là “nhà nước cộng sản Việt Nam”. Để thấy rõ ràng, rằng “đổi mới của họ chính là trở về với cái cũ”. Tôi chỉ thấy dấu hiệu tích cực khi nào họ trở về với tinh thần tự lực.

Nâng cao dân trí bằng cách tự do Tư tưởng. Thời thực dân Pháp kiểm duyệt báo chí, văn hóa phẩm rất khắc nghiệt mà nhà xuất bản Đời Nay, báo Phong Hóa và Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn vẫn thuộc quyền tư nhân. Vẫn được nói xa, nói gần tới Tự do, Dân chủ.

Ở Hoa Kỳ, người dân không có cái lối mừng vì đảng Cộng Hòa đổi mới, thí dụ thế, mà hễ đảng Cộng Hòa không làm lợi cho dân, cho nước, hoặc không phù hợp với đa số ý dân, người ta sẽ bàu cho đảng Dân Chủ, như tin thời sự hiện nay. Trình độ dân trí phải thật sự cao mới làm được điều hết sức giản dị như thế. Đó là văn minh. Đó là dân quyền. Đó là nhân bản.

Ít nhất chúng ta cũng phải nhìn nhận một số nét căn bản của nền văn học ở nhiều quốc gia tiến bộ mà chúng ta gọi là “Văn học Thế giới”. Thí dụ: Không kiểm duyệt. Nhà văn được tự do sáng tác, ấn hành, xuất bản và phát hành… Văn học có thể tương quan với chính trị, nhưng tuyệt đối không bị bó buộc phải phục vụ chính trị, giáo điều.

Văn học Việt Nam, trong nước, còn bị kiểm duyệt, kiểm soát tư tưởng một cách thô bạo. Tự điều này đã là một câu trả lời rồi!...”

(ngưng trích)

*

Ng Thi Vinh _Van Hoa Ngay Nay 1958
Nguyễn Thị Vinh sinh ngày 15 tháng 7 năm 1924 tại 41 Phố Bờ Hồ Hà Nội; gốc quê nội của bà tại làng Thịnh Đức Thượng, tức làng Giẽ, phủ Thường Tín, huyện Phú Xuyên, thôn Thịnh Đức Hạ, tỉnh Hà Đông; gốc quê ngoại tại làng Vân Hoàng, tức làng Chản, cùng tỉnh với quê nội. Hai ông bà thân sinh mất sớm, năm Nguyễn Thị Vinh lên tám. Bốn anh chị em bà, mà người anh cả mới mười lăm tuổi, đang từ con cái một gia đình khá giả, bỗng chốc trở nên mồ côi cha mẹ, nghèo khổ. Tuy gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn theo đuổi học hành. Khởi là thơ, viết văn từ những năm 1939-1940 tại Hà Nội.

Bà lập gia đình với ông Trương Bào Sơn (thành viên nồng cốt VN Quốc Dân Đảng, là một dịch giả có tiếng). Năm 1948, bà cùng con gái 3 tuổi, (Trương Thị Kim Anh) từ Hà Nội sang Hồng Kông tị nạn chính trị với chồng Trương Bảo Sơn.

Truyện dài Thương Yêu được viết tại Cửu Long, đảo Trường Châu, Hương Cảng năm 1948. Năm 1952, trở về Sài Gòn, chép lại 2 bản thảo Thương Yêu, Hai Chị Em và sửa chữa lần chót, chuẩn bị để ấn hành. Nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, khi cùng tị nạn chính trị tại Hương Cảng năm 1948-1951, với một số người bạn chiến đấu của ông, có dịp đọc bản thảo Thương Yêu, Hai Chị Em khuyến khích là nên xuất bản. Vì thế, năm 1953, ấn hành tác phẩm Hai Chị Em, tác phẩm Thương Yêu viết trước nhưng ấn hành năm 1954. Tác phẩm Xóm Nghèo (1958), Men Chiều (1960)…Thơ Nguyễn Thị Vinh (1972), tập thơ Cõi Tạm ấn hành năm năm 2001 (Nhà thơ Ngọc Hoài Phương ấn hành tập thơ Cõi Tạm năm 1992).

Năm 1960 ông Trương Bảo Sơn cùng với Nguyễn Tường Tam tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Đoàn Kết. Tham gia ngày 11-11-1960, bị bắt tù 3 năm và bị Tòa Án Quân Sự kết án 5 năm lưu đày ra Côn Đảo năm 1963. Được trả tự do sau 1-11-63.

Năm 1964 ông đứng ra thành lập và làm Tổng Thư Ký Quốc Dân Đảng biệt bộ Nguyễn Tường Tam, làm Tổng Thư Ký hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Dân Quyền Việt Nam, tổ chức phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu. Ông là người dấn thân và hăng say trong cuộc đời làm cách mạng. Năm 1978 ông Trương Bào Sơn vượt biển tới Pulau Bidong (Mã Lai) và định cư tại Canada năm 1979.

Năm 1970 nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật mở nhà xuất bản Anh Em và ấn bản đầu tiên là tập truyện Cô Mai của Nguyễn Thị được tái bản, tiếp theo sau là Quán Đời của chính anh. Và sự gặp gỡ nầy tuy tuổi tác chênh nhau gần hai thập niên nhưng trở thành bạn đời.

Năm 1984, Nguyễn Thị Vinh và Nguyễn Hữu Nhật tị nạn chính trị tại Na Uy do cô con gái Kim Anh bảo lãnh. Chồng cô Kim Anh là nhà thơ Dương Kiền, cũng là bạn văn với Nguyễn Hữu Nhật. Theo anh Nguyễn Hữu Nhật, đây là định mệnh, nhưng khi đến nơi, anh đã nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời của xứ Bắc Âu, anh cho là số mệnh anh phải là chứng nhân của phong cảnh và tình người và có bổn phận ở lại ghi chép, truyền đạt cho người đi sau. Chị Nguyễn Thị Vinh cảm nhận được sự bao dung của tuyết, của sự cưu mang từ một dân tộc rất xa lạ với mình. Dĩ nhiên mỗi người có một phần việc được giao phó trong đời sống.

Anh chị sống trong một căn nhà nhỏ giữa trời tuyết bao la chỉ có 52 mét vuông với 2 phòng ngủ, anh Nhật đã dùng 1 phòng làm nơi "Sản Xuất", còn chị thì chiếm lấy 1 góc nhỏ ở căn bếp, có thể viết, có thể ăn, có thể làm tất cả những gì cảm thấy thích thú và cần thiết. Và, nơi nầy cũng là nơi trở thành “cơ sở văn nghệ” cho hai cây bút cùng bạn văn như tạp chí văn nghệ Hương Xưa. Trong tác phẩm Na Uy & Tôi (1994), Nguyễn Thị Vinh ghi lại cảm nhận của bản thân nơi xứ người.

Theo lời bà “Tôi là người tỵ nạn chính trị. Vấn đề chính trị ở nơi tôi ra đi vẫn chưa thay đổi. Nên tôi chưa thể về lại được, dù là về thăm nhà”. Về tác phẩm, bà cho biết: “Các tác phẩm viết trước năm 1975 của tôi, không nằm trong danh sách cấm in, nhưng tôi tự thấy tôi không thể hợp tác được với các nhà xuất bản quốc doanh của đảng CS. Hợp tác một phần cũng là thoả hiệp chính trị. Các tác phẩm sau năm 1975, của tôi, hầu hết có nội dung chống độc tôn, độc trị, độc tài, độc đảng”.

*

Co Bong Lia Goc
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhận định về về Nguyễn Thị Vinh:

“Nguyễn Thị Vinh có một văn phong nhẹ nhàng nhưng đằm thắm. Hai chữ “thương yêu” bà lấy làm tựa cho một cuốn sách của bà, cũng là cái tình người đọc có thể nhận thấy dàn trải trong từng mỗi câu văn, trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Thị Vinh.

Dù, càng về sau này, nghĩa là sau 1954 là một giai đoạn, sau 1975 lại là một giai đoạn khác nữa, cách viết của bà có ít nhiều thay đổi, bà có dùng đến luận lý, phê bình, triết lý, chính trị, đôi khi cả chỉ trích, khôi hài nữa, nhưng cái dịu dàng, tinh vi, ngọt ngào đầy nữ tính vẫn là nét chính, cái hồn của văn chương Nguyễn Thị Vinh…

Trong cuốn Cỏ Bồng Lìa Gốc, Nguyễn Thị Vinh viết về nhiều thứ: Thân phận người “đàn bà nước Nam”, thư gửi cho hai nhân vật tiểu thuyết của Khái Hưng và Nhất Linh [Mai/Nửa Chừng Xuân & Loan/Đôi Bạn], thư gửi cho một người có thật ở ngoài đời Shirin Ebadi, Giải Hòa Bình Nobel 2003, bàn về nỗi “Vì Sao Dân Mình Khổ Mãi”, rồi lòng tư hương của một người Việt rời xa xứ sở (1975) muốn về nhìn lại đất nước nhưng lại tự thấy chưa thể làm cái việc ấy được vì: “khi phải ‘xin phép’ai có nghĩa là tôi chấp nhận người ấy có quyền, ít nhất đối với tôi. Nếu đất nước ta có một chính quyền thật sự do dân bầu, vì dân, đàng hoàng, tất nhiên như mọi người dân khác, tôi cũng phải tôn trọng luật pháp cùng các thủ tục hành chính của nó. Chỉ khó... (vì) tại tôi, tôi không ưa cái thứ chính quyền hiện có ở quê nhà”.

Đoản văn thú vị nhất có lẽ là đoạn Nguyễn Thị Vinh kể lại những kỷ niệm của bà với một số các nhân vật trong Tự Lực Văn Đoàn, nhất là với nhà văn Nhất Linh, ở Hương Cảng, khi ấy ông đang viết bộ trường thiên Xóm Cầu Mới”.

Nguyễn Thị Vinh cho biết: “Các nhà phê bình văn học viết về nội dung, bố cục và bút pháp của ‘Xóm Cầu Mới’. Còn riêng tôi, lại nhớ những tháng được nhìn thấy nét “chữ con kiến bò” của anh Tam. Nhỏ nhưng không tới nỗi quá khó đọc, chạy trên mấy trăm trang giấy bản thảo. Bản thảo đầu tiên của Xóm Cầu Mới, anh Tam đã thai nghén từ năm 1940 ở Hà Nội đã mất hết trong chiến tranh, và tới năm 1948 mới được anh viết lại ở Hương Cảng”.

(ngưng trích)

Kể từ khi thai nghén truyện dài Thương Yêu ở Hương Cảng năm 1948 đến khi vĩnh biệt “Cõi Tạm” năm 2020 ở Na-Uy đánh dấu bảy thập niên cầm bút của nhà văn nữ. Bà là nhà văn nữ thọ nhất trong Tự Lực Văn Đoàn nói riêng và văn đàn Việt Nam nói chung đã đóng góp ngòi bút của mình từ trong nước đến hải ngoại.

Little Saigon, Jan 10, 2020

Vương Trùng Dương

****

Lời tòa soạn Việt Báo: Sau khi Việt Báo Online đăng bài “Tưởng Nhớ Nhà Văn Nguyễn Thị Vinh” của Vương Trùng Dương một số độc giả đã hỏi về chi tiết trong bài viết nói rằng, “Nhà văn Nguyễn Thị Vinh, nhân vật cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn.” Nhân đó, Việt Báo đã có liên lạc với nhà văn Phạm Phú Minh để tham khảo và được biết như sau.

Theo nhà văn Phạm Phú Minh cho biết lúc còn sinh tiền nhà văn Nhất Linh đã có viết là nhà văn Nguyễn Thị Vinh đã được mời làm thành viên dự bị của Tự Lực Văn Đoàn và chờ có cuộc họp sau đó để công nhận nhà văn Nguyễn Thị Vinh là thành viên chính thức. Nhưng cuộc đó đã không diễn ra và vì vậy nhà văn Nguyễn Thị Vinh vẫn là thành viên dự bị của Tự Lực Văn Đoàn chứ không phải là thành viên chính thức.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lời Dẫn Nhập: Gần đây, qua bao nhiêu biến cố dồn dập trong cuộc đời Trần Hoài Thư, đã đến lúc không thể không có một bài viết về người bạn văn, như một tấm thiệp mừng 50 năm ngày cưới – 50th Gold anniversary của đôi vợ chồng Nguyễn Ngọc Yến – Trần Hoài Thư, một “đám cưới nhà binh” của thế kỷ, với rất nhiều hạnh phúc cùng với nhiều khổ đau khi cả hai sắp bước vào tuổi 80.
Một hình bóng, suốt cả cuộc đời trôi nổi với hệ lụy khổ đau, một nhân tài không bao giờ có được mùa xuân nhưng với tâm hồn thanh thoát, ông không quan tâm mọi người nhìn ông với đầu tóc bù xù, áo quần tả tơi, kỳ quái trên đường phố… mà tự bản thân ông cho mình rong chơi trong cõi ta bà mộng mị với “Ngày Tháng Ngao Du”...
Thi sĩ Khet Thi chỉ mới 45 tuổi, dựa theo thông tin từ trang Facebook của ông. Vợ của Khet Thi nói rằng cả hai vợ chồng bị phỏng vấn hôm Thứ Bảy 8/5/2021 bởi cảnh sát và quân đội tại thị trấn Shwebo, trong khu vực Sagaing – trung tâm của cuộc kháng chiến chống lại cuộc đảo chánh quân sự mà trong đó lãnh tụ dân cử Aung San Suu Kyi bị bắt.Chaw Su, vợ của nhà thơ Khet Thi, nói trong tiếng khóc với BBC chương trình tiếng Miến Điện từ Monywa, rằng hai vợ chồng cùng bị thẩm vấn, “Họ nói chồng tôi ở trung tâm thẩm vấn. Nhưng anh không trở về, chỉ có xác của anh. Họ gọi tôi vào buối sáng và bảo tôi lên đón chồng tôi ở bệnh viện tại Monywa. Tôi nghĩ có thể là gãy tay hay gì đó… Nhưng khi tôi tới, anh nằm ở nhà xác, nội tạng bị lấy đi rồi.”Tổ chức có tên là Assistance Association for Political Prisoners nói rằnh nhà thơ Khet Thi chết ở bệnh viện sau khi bị tra tấn ở trung tâm thẩm vấn, và nói rằng số người dân bị giết từ khi đảo chánh xảy ra là 780 người.Khet Thi là nhà thơ thứ ba chết
Nội dung chủ yếu mà tác giả muốn nói rõ chính là bản chất cố tủy của Phật Giáo, đó là nhận rõ bản tâm (Original Mind) của mình, tức là Thấy Tánh. Thấy Tánh là thấy tâm nơi không một pháp nào dính vào, nhìn thấy tâm nơi chỗ rỗng rang tịch lặng, thấy sanh diệt huyễn hóa, thấy duyên khởi tánh không, thấy các pháp đều không hư, nhìn thấy tâm nơi khởi lên và biến diệt, nhìn thấy tâm vô tác, vô tướng... Thấy được tánh các pháp như thế, là giải thoát.
Ba mươi tháng tư của bốn mươi sáu năm trước đối với hàng triệu người Việt không chỉ đơn thuần là thời điểm xảy ra trên diễn trình của thời gian vận hành liên lỉ bất tận. Ba mươi tháng tư đối với hàng triệu người Việt là điểm tụ của ký ức khó phai. Đừng tưởng ký ức là cái gì đã qua thì dễ phai nhạt và không hiện thực. Khi ký ức với những vết hằn khổ lụy sâu hoắc của một quãng đời nào đó có cơ hội tái hiện thì nó còn thật hơn gấp triệu lần cái hiện tại mà con người đang sống,
Là vì không ai vào lúc ấy có thể trải được cái tâm trạng bất đắc chí, hụt hẫng, dở khóc dở cười của mình... một cách thấu đáo, ý nhị, hào hùng, cảm động mà lại lạc quan tếu kiểu như ông. Tửng tửng, tếu, tự biếm, mà thâm sâu làm sao. Đọc thơ ông, người ta vừa cười, vừa khóc.
Đêm yên tĩnh. Nhìn ra khung kiếng cửa sổ chỉ thấy một màu đen, đậm đặc. Cây cối, hàng dậu, lẳng hoa, bồn cỏ, ghế đá, và con đường ngoằn ngoèo trong công viên, có thể sẽ khó cho khách bộ hành nhận ra vị trí và thực chất của chúng. Cây bên đường có thể bị nhầm là kẻ trộm đối với cảnh sát, và sẽ là cảnh sát đối với kẻ trộm (1). Giây thừng hay con rắn. Con chim hay con quạ. Con sóc hay con mèo. Người hay quỉ. Mọi vật đều một màu đen.
Nhà văn người Mỹ chuyên viết truyện thiếu nhi Beverly Cleary đã qua đời hôm 25 tháng 3 năm 2021 tại thành phố Carmel thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 104 tuổi, theo nhà xuất bản của bà là HarperCollins thông báo qua tường thuật của Đài NPR hôm 26 tháng 3 năm 2021. Cleary là người tạo ra một số nhân vật có thật nhất trong văn chương của tuổi trẻ -- Henry Huggins, Ralph S. Mouse và Ramona Quimby nóng tính. Các thế hệ độc giả giày xéo sân chơi, học viết chữ thảo, chống lại bánh sandwich với cá ngừ và có những vết xướt và vết bầm tím vinh quang của tuổi trả cùng với Ramona. “Tôi nghĩ trẻ em muốn đọc về những đứa trẻ bình thường mỗi ngày. Đó là những gì tôi muốn đọc khi tôi lớn khôn,” theo Claary nói với Linda Wertheimer của Đài NPR vào năm 1999. “Tôi muốn đọc về loại những đứa con trai và con gái mà tôi biết trong xóm làng của tôi và trong trường học của tôi. Và trong thời thơ ấu của tôi, nhiều năm về trước, sách thiếu nhi dường như là viết về trẻ em Anh Quốc,
Hai nhà thơ bị bắn chết, và chín nhà thơ bị bắt giam, trong đợt bố ráp vào tháng 3/2021 khi quân đội Miến Điện đàn áp những người biểu tình đòi tái lập chính phủ dân sự. Bản tin ngày 10/3/2021 của Reuters cũng ghi rằng Hội Văn Bút Quốc Tế PEN International cho biết một nhà thơ từng sang nghiên cứu tại đại học University of Iowa đã bị bắt, trong cùng ngày nhiều nhà văn bị kêu án một tháng tù. Hai nhà thơ MYINT MYINT ZIN và K ZA WIN bị bắn chết. Họ chỉ có chữ khi họ đứng dậy lên án cuộc đảo chánh của quân đội Miến Điện nhằm lật đổ chính phủ dân cử của bà Aung San Suu Kyi ngày 1/2/2021. Bản thông báo của PEN đưa ra, ký tên nhà văn Salil Tripathi, chủ tịch Ủy Ban Nhà Văn Trong Tù (Writers in Prison Committee), viết: “Nhà thơ có chữ; chính phủ có súng. Các nhà thơ đã làm những gì họ có thể làm với công cụ họ có – viết, bày tỏ, nói. Chính phủ đã làm một thứ duy nhất họ biết với công cụ họ có. Nổ súng.” Hàng chục nhà văn và nhà thơ bị lực lượng an ninh nhắm bố ráp
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.