Hôm nay,  

"Đọc & Viết": Trịnh Y Thư, đằng sau trang sách

01/03/202509:47:00(Xem: 1667)
NgonNgu_TYT_Cover_PreOrder

Tôi gấp sách lại ở “Phần IV – Thơ” quyển “Trịnh Y Thư – Văn chương Nghệ thuật và Những điều khác”. Dừng lại để ngẫm xem những gì còn đọng lại trong đầu kể từ chương I cho đến hết chương III.
 
Trịnh Y Thư, ông là ai?
 
Vì đọc sách là đọc tâm tư tác giả, tôi biết vậy nên mới đoán mò xem ông ấy là người như thế nào? Nhưng cái biết đó có thể sai lệch vì nó đã bị bẻ cong qua lăng kính của mình, tôi biết đấy chứ. Tuy thế, tôi vẫn ghi xuống cái gì mình nghĩ một cách chân thành. Hy vọng rằng cái “chân” thì dễ chấp nhận hơn bất kỳ cái “tay” nào khác.
 
Đọc Trịnh Y Thư là phải đọc chậm rãi và kỹ lưỡng, vì Trịnh Y Thư không là người phàm! Ông thâm trầm cả từ nội tâm đến bề ngoài. Câu chuyện của ông không phơi bày trần trẫn ra cho độc giả thấy ngay trên mặt giấy. Nó ẩn mình đâu đó trong suốt nhiều trang giấy khiến người đọc phải vận não. Với truyện ngắn Đôi mắt của bóng đêm, ông dắt độc giả đi từ cảnh này rồi qua cảnh khác, màn một sang màn hai, màn ba, nói theo ngôn từ điện ảnh, và để rồi màn cuối cùng thì mới toang ra một kết cục. Cảnh tàn khốc đến đau lòng. Nhân vật chính của câu chuyện nhận lãnh một “nghiệp quả” đau đớn, thế mà giọng văn ông vẫn cứ êm êm, máy quay vẫn rè rè kêu và ống kính thì vẫn lia chầm chậm cận cảnh này sang cận cảnh khác. Độc giả cảm nhận được cả tính cam nhẫn của nhân vật trong chuyện.
 
Cái tài của Trịnh Y Thư là thế. Ông hẳn phải hiểu tâm lý của người đàn ông khi yêu, tâm lý người đàn bà khi được yêu để rồi tả ra ánh mắt của đôi tình nhân khi yêu nhau ra sao nữa kìa!
 
Đọc Trịnh Y Thư để còn thấy ngôn ngữ ông dùng tuyệt hảo vì tính gợi hình. Một danh từ mới được ông đặt cho đúng chỗ, đúng lúc, đúng ngữ cảnh thì nó làm tròn chức năng minh họa. “Ảnh tượng” của đuôi con mắt tạo thành cái lườm cái nguýt mắt. Trịnh Y Thư bảo đó là điểm duy nhất còn lưu lại cho tình yêu của đôi nam nữ. Quả đúng, nó giống như “bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm” vào món ăn tình yêu cho dậy thêm mùi vị, vậy đó!
 
Ở một bài nhận định về cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, những cụm từ như “Đồ tể lợn”, “Tể tướng người”, “chúa tể”, “lợn-người” được Trịnh Y Thư đem ra làm hình ảnh những người thuộc giai cấp bần cố nông “Bolshevik” trong thời cộng sản thanh trừng, càn quét, đấu tố giai cấp tiểu tư sản để củng cố quyền lực. Nó ghê tởm đến lợm giọng khi ông tả con “lợn Bò” chuyên ăn sách, sách càng nặng ký về tư tưởng nó càng thích ăn và càng thấy ngon. Rồi nó trở nên phè phỡn to phềnh khi cộng sản lên ngôi bá chủ.
 
Có gì trường tồn mãi mãi đâu, vì cái gì khi đến điểm cực đại thì phải quay trở lại điểm cực tiểu. Quả lắc đong đưa, hết cực này thì trở về cực kia cho đến khi gia tốc bằng không thì nó dừng. Cộng sản quốc tế cũng vậy, năm 1989 “tiếng cười của quỷ sứ tắt ngúm”, bức tường Bá Linh tan vỡ, cộng sản không còn đất sống ở Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, ở những nơi con người hiểu thế nào là tự do.
 
Với cộng sản Việt Nam thì sao? Thì “nó” lì lợm hơn cộng sản Đông Âu, còn là vì “nó” chưa hiểu hết thế nào là “tự do”. Cho nên “nó” có hai “trận đấu cười”, một năm 1955 “Nhân Văn-Giai Phẩm” và một năm 1986 “Cởi trói văn nghệ sĩ”, cả hai đều do văn nghệ sĩ Việt Nam chủ động đứng lên “cười”. Thế nhưng guồng máy “lợn-người” có vẻ “lợn” thắng thế hơn “người” nên cả hai “trận đấu cười” đều về con số không. “Xôi hỏng bỏng không” Việt Nam vẫn còn nguyên cái “đuôi con cáo”, chỉ có phần “nó” khéo ngồi để che giấu cái đuôi mà thôi!
 
Trịnh Y Thư còn là một tây ban cầm thủ. Hẳn vậy vì trong tiểu sử của ông ghi rõ ràng là ông chơi guitar, sáng tác nhạc cho guitar, cho piano và ca khúc. Nhạc khúc của ông có ai được nghe chưa? Chắc là có nhưng không thấy phổ biến cho quần chúng lớn, nên phải chờ đến ngày nào đó được nghe thì mới biết ca khúc ông sáng tác hay hay dở?!
 
Trịnh Y Thư một nhà Tôn giáo học. Tính nhị nguyên, phần cốt lõi của Phật giáo, được ông nêu lên bàng bạc trong các bài viết. Ông còn đề cao tập tục thờ cúng ông bà của người Việt. Là một con người thì có hai phần, phần xác và phần hồn vía. Phần hồn vía còn gọi là thần thức hay tâm thức. Khi con người chết đi chỉ chết phần xác mà thôi. Còn phần tâm thức chẳng bao giờ mất đi mà kết tụ thành thức thứ tám “A lại gia thức” của đời đời con cháu về sau. Do vậy, hình ảnh con cháu xì xụp lễ bái trước ban thờ ông bà là một hình “ảnh đẹp và nhân bản” mà người Việt Nam đã tạo dựng được. Khi lễ ông bà là lúc người trở về hòa nhập với cái “biết nguyên thủy” của vạn pháp. Lúc đó con người chỉ còn cái tính “bản thiện” nổi bật lên rõ ràng nhất. Nó dẹp tan những ganh đua ghen ghét tị hiềm hung ác trong tâm mà con người vì cuộc sống đã để nó lên ngôi và che mờ tính bản thiện muôn thuở này.
 
Trịnh Y Thư con người thật của ông đã hiện rõ ràng ở truyện ngắn Tự truyện của kẻ đi tìm quá khứ và tùy bút Một kẻ lạ trên phố phường Hà Nội. Ông là người có chiều hướng đi vào nội tâm để tìm hiểu mình là ai. Và rồi ông viết xuống công trình đi tìm này nên độc giả được dịp trở về quê hương làng xã tỉnh Hà Đông, huyện Chương Mỹ, các làng xã Quảng Bị, Đầm Mơ, Chúc Sơn, Chúc Động, Tốt Động, vùng giữa hai con sông Hồng và sông Đáy. Ông giúp cho người đọc ngửi được mùi không khí “man mát” lạnh của tháng 10, mùi phân trâu bò, mùi của vùng chiêm trũng lầy lội nơi vua Lê Lợi khởi binh cứu nước. Quá khứ ùa về tâm của Trịnh Y Thư, nay cũng tràn qua tâm của người đọc. Xem rằng cái quá khứ của một người có đồng điệu với quá khứ của người đọc hay không? Chắc chắn rằng không ít thì nhiều người viết cũng làm rung động ít nhiều cái quá khứ của người kia. Vì rằng thì là mà… quá khứ một khi đã đi qua rồi thì đi mãi đi mất tiêu, nhưng hồn thiêng của nó vẫn còn đọng lại ở đâu đó gọi là “hồn thiêng sông núi, lũy tre, miếu chùa…” mà chỉ có người cầu mong mới nhìn ra được “nó”.
 
Hà Nội, Huế, Sài Gòn ba thành phố lớn làm nên ba đặc tính rất Việt mà người Việt Nam nào cũng muốn nhận lãnh. Thế nhưng Hà Nội dường như nổi trội hơn hết vì tính bề dài lịch sử của nó. Đó là tính cổ lịch sử của trống đồng, tượng Phật đồng đen; tính lãng mạn của các văn nghệ sĩ còn vương vấn đâu đây. Họ đã thổi vào bát phở, đĩa bánh cuốn, tô bún ốc, chiếc bánh tẻ… và đã làm nên nỗi bối rối mà “kẻ lạ trên phố phường Hà Nội” phải thẫn thờ!
 
Ha haaa… nhờ thế mà độc giả mới mày mò ra được một tí gì gọi là “Trịnh Y Thư”.
 
Trịnh Y Thư! Trịnh Y Thư!… cứ bị gọi tên liên hồi trong đoạn văn ngắn này, chắc cũng khiến ông nhảy mũi hắt xì liên tục. Nhưng yên chí cái nhắc nhở này chỉ là một “quả lành” ông nhận lãnh, vì cái nhân ông làm ra toàn là nhân tốt đẹp thì cớ gì có thể tạo ra được quả xấu cho được!?
Chúng ta đều đồng ý như vậy, đúng không ạ?
 
– Doãn Cẩm Liên
(California, ngày 17 tháng 2, 2025)
 
 
Ghi chú:
 
Trịnh Y Thư: Văn chương Nghệ thuật và Những điều khác là ấn bản đặc biệt về tác giả TYT do tạp chí Ngôn Ngữ thực hiện, phát hành tháng Tám, 2024.
 
Để mua sách, xin bấm vào một trong hai đường dẫn sau:
 
 
 
Hoặc liên lạc với tác giả qua địa chỉ email sau để mua sách có chữ ký của tác giả:
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
"Dòng Đời", tác phẩm thứ sáu của nhà văn Lê Lạc Giao, lấy cảm hứng từ sự tuôn chảy của một dòng sông để phác họa nhiều dòng chảy khác sâu kín, phức tạp, đa chiều trong nội tâm của Hiểu, nhân vật chính trong tiểu thuyết. Hiểu lạc trôi theo vận nước, bước qua những tàn tích của lịch sử, qua những bóng ma quá khứ, những khoảnh khắc cô đơn tuyệt vọng để tìm lại bản thân, hội nhập, đối diện với những thử thách mới trong hiện tại và tương lai.
Suy nghĩ về thơ, Đặng Toản đã viết: “ ... Thơ chấp nhận mọi sự đẽo gọt và không đẽo gọt, từ vi tế đến thô ráp, từ dân gian đến bác học và các thành phần tham gia vào chiếu thơ có mặt phu xe và tể tướng, gã ăn mày và đại phú hộ...” ( Nghĩ về thơ, trang 258). Do đó sẽ càng thú vị hơn, khi ta bắt gặp những hình ảnh thơ, những câu thơ với những ngôn ngữ “nghề nghiệp” song cũng đầy mới lạ và ấn tượng của “gã thợ tiện’ bên những tia laser cắt... ống sắt!
“Ai là tiểu thuyết về sự mất tích của bản thể, của những con người, trên sân khấu của đời sống như một viện bảo tàng. Ai ngẫu nhiên được hình thành như bản tẩu pháp (fugue) về hành trình trốn chạy, lưu vong, tỵ nạn, hoá thân của con người trong thời hiện đại. Ai là sự kết hợp các hình thức sáng tạo trong tiểu thuyết như phim ảnh, tường thuật, truyện lồng trong truyện (metafiction), để tạo một không gian cho các ý niệm phản chiếu lẫn nhau, trong màn triển lãm nghệ thuật sắp đặt (installation) dùng ý tưởng. làm chất liệu. Ai mở ra sân chơi cho trò chơi ngôn ngữ đang cần khai phá thêm và khai quật lại. Ai là một thử nghiệm về thời gian để người đọc tự tìm kiếm câu trả lời cho họ.”
Tập truyện ngắn “Chuyện cũ phù dung trấn” ( CCPDT), là tác phẩm thứ 16 của Tiểu Lục Thần Phong ( TLTP ). Sách dày 362 trang, gồm 36 truyện ngắn, với những suy tư trăn trở về cuộc sống nơi quê nhà và cả nơi xứ xa, mà tác giả hiện đang sinh sống. Thấm đẫm những hiện thực của cuộc sống và gắn kết cả chuyện đời, chuyện đạo, gây ấn tượng và những suy ngẫm cho bạn đọc...
Tôi đã yêu mến và ngưỡng mộ gần như tất cả các nhân vật được viết trong tuyển tập này. Trong đó có những người là bậc thầy vô cùng cao tột của tôi: Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, và Thầy Tuệ Sỹ. Những vị khác về nhiều mặt cũng là những bậc thầy của tôi, nghĩa là tôi nhận thấy có phương diện nào đó để học từ họ, nhờ cơ duyên thân cận hoặc nhờ gặp trong làng văn chương. Thí dụ, Giáo sư Trần Huy Bích là đỉnh cao về Hán học, về nghiên cứu thơ và cổ văn, với những nghiên cứu về nhà thơ Vũ Hoàng Chương cực kỳ thơ mộng và thâm sâu.
Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gic, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác. Là một tác phẩm siêu hư cấu không có chủ ý đáp ứng những quy củ tiểu thuyết thông thường, Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư là một tập hợp của ba câu chuyện, ba toa riêng lẻ của một chuyến tàu, vận hành trên cùng một đường rầy thiên lý, theo chiều dài của một giai đoạn lịch sử chiến tranh tanh nồng, nơi hành khách là những nhân vật bị ném lên tàu, vất vưởng chuyển động trên một trục cố định, dốc toàn bộ sức lực và trí tưởng tượng gắng tìm cho mình một lối thoát, hay theo tác giả, tìm một lối về.
Thật sự, ở một mức độ nào đó, người đi vào quyển sách đều có thể nhận ra ít nhiều, ở chỗ này hay chỗ khác, qua những góc quay khác nhau, với những mức độ đậm nhạt khác nhau, tất cả các dự cảm vừa được trình bày ở trên. Nhưng nếu nghĩ đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, hay một tiểu thuyết chiến tranh, chúng ta sẽ ngộ nhận tác giả. Tiểu thuyết này, với tính chất và cái nhìn đặc thù của tác giả, không hề có mục đích ấy. Lịch sử có ở đó, cùng với khuôn mặt kinh hoàng, gian trá, điên đảo, và tàn bạo của chiến tranh. Nhưng đây là một cuốn tiểu thuyết chỉ lấy lịch sử làm một cái nền với những gam màu rất mờ nhạt, và, dĩ nhiên, nổi bật lên vẫn là một màu đỏ nhờ nhờ, điên quái, bất tín và bất-khả-tín, khi thì chỉ ươn ướt, chỗ lại đặc quánh những vết thương làm mủ của lịch sử..
Tập sách nhắc đến tiệm phở gần đầu đường Nghĩa Phát, vừa từ đường Bành Văn Trân rẽ vào, là tiệm của bác Huyền, người cùng giáo họ Long Cù, xứ Trực Chính với thày u tôi, là những gia đình công giáo theo các cha di cư vào Nam. Đó là tiệm phở đầu tiên nằm trong giáo xứ Nghĩa Hoà. Được sinh ra và lớn lên trong giáo xứ này, tôi muốn chia sẻ thêm về những quán phở ở Nghĩa Hoà. Sau phở bác Huyền, vào đầu thập niên 1970 có một tiệm phở nữa cũng trên đường Nghĩa Phát gần đầu nhà thờ. Còn theo đường Nghĩa Hoà phía cuối nhà thờ, đi vào đến ngã tư ông Nghìn có tiệm phở của ông giáo Chung.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.