Hôm nay,  

Điểm sách: Giọt nước nghiêng mình

5/15/202309:42:00(View: 4289)
Điểm sách

giot-nuoc-nghieng-minh

Nguyễn Văn  Sâm, Giọt Nước Nghiêng Mình, tập truyện ngắn,
Viện Việt Học xuất bản, California, 2021.


Tôi đưa quyển sách cho con trai, nói con đọc đi. Nó đọc một hai truyện gì đó, rồi nói, ngôn ngữ cũ mèm má ơi. Có vài chỗ khó hiểu nữa. Phải, ngôn ngữ “cũ mèm”, và có vài chỗ “khó hiểu” nữa, ngay cả với tôi. Con tôi thuộc thế hệ của Doraemon  rồi Harry Potter. Tôi thuộc thế hệ của Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, của những truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc trên tạp chí Hương Quê một thời xa lơ xa lắc có lẽ đã trên dưới 60 năm. Cho nên tôi đã miệt mài “ôm” quyển sách trong nhiều ngày liên tục, rảnh được lúc nào là đọc, không theo thói quen con-cà-con-kê của mình.
     Quyển sách có gì hấp dẫn? Chẳng có gì hấp dẫn, nếu hiểu theo nghĩa là sách của những câu chuyện diễm tình, giật gân, hay thời sự nóng bỏng. Tôi thích nó chỉ là vì qua nó tôi thấy lại bầu không khí của Nam-kỳ ngày trước và ngôn ngữ cũng đặc sệt Nam-kỳ. Chẳng hạn trong truyện Hương Vị Đời:
      “Chị coi, con nhỏ lớn sộ, thằng này có chút nhí mà tối ngày tò vè, xẩn quẩn. Muốn lắm nên kiếm chuyện tới lui hoài. Mà khổ, con nhỏ coi bộ chịu đèn mới chết một cửa tứ mấy thằng trang lứa lối xóm cùa nó.” (trang 37)
      “Bạn hữu thì ai chấp nhứt gì, nhưng xin đừng nói chơi, nó nhẹ thể con người mình đi. Hai đứa cúi đầu mạnh ai nấy ăn, không khí tuy không còn nặng chình chịch như hồi nãy...” (trang 41).
     Hay như trong Người Con Gái Của Nước:
      “Nước đồng minh mông san dã, mút mắt không biết đâu là bến bờ. Thỉnh thoảng rời rạc lơ thơ mấy ngọn dừa trồi lên mặt nước vài ba tàu trên đó đeo, đu năm sáu người ướt như chuột lột, té lên té xuống.” (trang 71)
     Trong truyện Chiếc Ba Lô Để Lại:
      “Chết vì tài xế mua bằng nữa đó cha nội. Học ba xí ba tú, lái chưa rành, mót tiền quá chạy đi mua bằng, lên xe ngồi điều khiển mà không hiểu luật lại vụng về nên thường làm chết thiên hạ rồi bỏ xe lẫn trốn... chuyện này xảy ra hà rầm” (trang 187)
     Có vô số những đoạn những câu như vậy từ đầu đến cuối quyển sách: “Ông già ngừng một lúc hèn lâu...” (trang 48); “Rốc, trẻ nhứt bọn, đương nằm, tay lót dưới ót làm gối, hơi ngóc đầu dậy, nói chõ vô ba người ngồi...” (trang 27); “Mười ba tuổi nó bự xộn, cao nhồng, xách hai tay hai thùng nước, loại thùng dầu hôi hiệu con gà, đi te te một hơi tới nhà ai đó mướn đổ nước tháng...” (trang162). Vân vân và vân vân.
     Ngôn ngữ rặt Nam-kỳ xuất hiện suốt từ truyện đầu cho đến truyện cuối, nhưng không phải tất cả mười chín truyện trong tập Giọt Nước Nghiêng Mình đều là chuyện của quá khứ, mà còn có chuyện của hiện tại và chuyện của tương lai (được tưởng tượng), nếu lấy cái mốc từ năm 1975 về trước là quá khứ và hiện tại là từ 1975 trở về sau cho đến hôm nay.
     Trong nhiều truyện có bối cảnh quá khứ, người đọc như thấy ngay trước mắt cảnh thật (và có lẽ người thật) cùa Nam kỳ và đất Sài Gòn xưa. Trong truyện Người Em Xóm Giếng, nhân vật ông Ba nói “kiểu lập đi lập lại của dân nhậu”:
      “Đường Huỳnh Quang Tiên đó hả? Nói vầy cho dễ hiểu nè! Bắt đầu từ góc đường Nguyễn Cư Trinh với đường Trần Hưng Đạo nhe! Từ đó băng qua đường Trần Hưng Đạo thẳng xuống tới bờ sông Bến Chương Dương là đường Huỳnh Quang Tiên. Tôi nói là nói tên đường Việt Nam có sau thời Pháp chớ nói tên đường trước đó [...] thì anh em còn bù trất hơn nữa!” (trang 155)
Mấy con đường đó thuộc quận 1. Cũng trong truyện trên, nhân vật Tín nhắc tới một địa danh quen thuộc khác bây giờ thuộc quận 4 và quận 7:
      “Tôi về thẳng bên Tân Qui Đông. Lúc qua bến đò Tôn Thất Thuyết, nhìn bóng mình trôi trôi trong dòng nước tôi tự an ủi rằng mình đúng , rồi má với bà em sẽ bắt em đi lấy chồng”.  (trang 169)
     Còn đây, trong Chiếc Ba Lô Để Lại, nhân vật như đang đứng thật ngoài đời ở quận 10 chứ không phải trong truyện.
      “Nếu chừng mờ mờ sáng đi tới đây, góc Nhật Tảo và Nguyễn Kim nầy, dưới gốc cây dầu bự chảng bên tay trái, thì sẽ gặp một người đàn ông còm cõi đứng phụ vợ  bán bánh giò. Đó là người bạn lính trước đây cùng đơn vị của tôi ở Pleiku”. (trang 187)
     Trong số những truyện gọi là của Sài Gòn ngày xưa ấy, rất cảm động là truyện Bạn Thời Chơi Nhà Chòi. Én và nhân vật người lính cảnh sát trẻ là bạn hàng xóm lúc còn nhỏ ở khu Vườn Lài quận 10. Lớn lên, đời mỗi người phiêu dạt một hướng. Én trở thành gái điếm ở khu Cầu Hàn quận Nhà Bè (bây giờ là quận 7). Trong một lần bố ráp, người cảnh sát nhận ra Én qua thẻ-kiểm-tra (chắc là thẻ căn-cước). Anh gọi cô lên “thẩm vấn” (hỏi cung) và qua đó biết được tình hình cũng như số phận những người quen ở xóm cũ. Anh cứu Én khỏi cuộc bố ráp bằng cách nói với người bạn lính khác rằng cô bị “đau bụng-máu” và dẫn cô ra nhà xí... Én thoát, và nhờ sự lanh lợi của mình, cô còn xin cho một cô bé 17 tuổi “mới bị gạt bán vô động” cũng được thoát theo cô.
     Các truyện có bối cảnh hiện tại cũng rất thời-sự.  Chuyện vượt biên có truyện Có Khi Biển Lặng. Chuyện ông già Việt kiều già mê gặm-cỏ-non rồi bị lừa cướp hết tiền có truyện Ở Một Nơi Tình Người Quá Lạt. Chuyện chồng hà hiếp vợ đánh chửi vợ tục tắn có truyện Cái Vuốt Trán Vô Ngôn. Chuyện đường sá Sài Gòn ngập lụt và chuyện người lính cũ từ chối đi Mỹ theo diện HO có truyện Chiếc Ba Lô Để Lại. Chuyện một “doanh nhân thành đạt” kiểu mới, hãnh tiến và tự đắc một cách rẻ tiền có truyện Xâu Chuỗi Da Voi. Chuyện mê tín dị đoan có trong truyện Dấu Hoa Vun Cây. Chuyện tận diệt cá tôm hủy hoại môi trường có trong truyện  Người Con Gái Của Nước. Chuyện lấy cát dưới lòng sông tạo ra những cái hàm ếch gây sụp lở bờ sông chết người ở miền Tây có trong truyện Giữ Tròn Lời Hứa. Tác giả sống ở Mỹ, nhưng hình như lòng vẫn lo nghĩ đau buồn vì những chuyện rất thời-sự như vậy ở quê nhà. Người đọc có thể thấy điều đó qua câu đề từ ngay trang đầu tiên của tập truyện:
      “Những truyện ngắn viết trong khoảng thời gian mà những nỗi đau buồn của thời đại luôn làm trái tim chúng ta đau đớn khi phải bị bắt buộc chứng kiến hàng ngày”.
     Một chuyện duy nhất thuộc thì tương lai, xảy ra năm 2048, là truyện  Lão Hát Rong Trên Bờ Biển Cạnh Đặc Khu. Truyện giả tưởng, nhưng thật thú vị, với chi tiết người Việt Nam “vượt biên” từ đặc-khu Phú Quốc của Tàu trở về Việt Nam. Phú Quốc, hòn đảo đẹp bình dị, cùng với Hòn Khoai hoang sơ và Thổ Châu cô đơn man dại gợi nhớ chuyến du khảo năm 1973 của đoàn sinh viên đại học Văn Khoa Saigon và đại học Cao Đài Tây Ninh. Chuyến du khảo trên hạm y tế Hàn Giang 401 năm đó có tác giả tập truyện Giọt Nước Nghiêng Mình và học trò của Thầy, kẻ viết bài này.
     Giọt Nước Nghiêng Mình có những truyện rất ngắn, nhưng chứa đầy sức nặng của tư tưởng. Như nhà văn Phạm Phú Minh có nói trong Lời Tựa, nhiều truyện của tác giả hầu hết đều mang tính luận đề: truyện được viết ra cốt là để nói lên một triết lý một tư tưởng gì đó. Trong truyện cuối cùng, Paris Vẫn Đứng Vững, những người bạn tụ họp nhau trong một bữa tiệc nhỏ khi đến thăm một người bạn của họ bị thương trong vụ thảm sát do khủng bố ở Paris ngày 13.10.2015 . Họ bàn về giây phút cận-tử, về cái sống cái chết và kết luận như sau:
      “Chưởng trở về từ cõi khác trên hình thể. Chúng ta, những người không có mặt ở sáu địa điểm bi kịch kia phải trở về từ cõi khác trong tâm hồn nhân sự kiện kinh hoàng vừa rồi. Câu nói của Đức mấy năm trước, khi chúng tôi bắt đầu thân nhau ù ù trong tai tôi: ‘Cái chết của hồn nước trong tâm thức mới thiệt sự ghê rợn. Nó làm chết một số đông không thể đếm được.’ ” (trang 248). Đây là một sự liên tưởng rất đắt: cái chết trong tâm hồn một con người và những con người dẫn đến cái chết của một đất nước. Tôi nghĩ thêm: bản sắc của một con người và nhiều con người mà mất đi thì nước mất!
     Trong truyện Khói Thuốc Cả!, nhân vật Ngoạn Nguyệt cũng triết lý:
      “... em học được rằng ở đời phải biết việc gì quan trọng việc gì không. Nói chung tất cả mọi chuyện rồi sẽ tan biến như khói thuốc. Biến thành không. Nhưng cùng lúc đó mọi chuyện cũng quan trọng, nó làm cho con người mình trở nên có giá trị hay tồi tệ.” (trang 230)
Nhưng “luận đề” rõ nhất ở nhiều truyện trong tập này là những tư tưởng, triết lý, ý niệm trong Phật giáo. Người viết bài này chỉ biết lỏm-bỏm đôi ba điều về Phật pháp, nhưng cũng thấy rõ bầu không khí của từ-bi bao trùm trong truyện đầu tiên được lấy làm tựa chung cho cả tập truyện, Giọt Nước Nghiêng Mình. Ni sư trong truyện tâm sự:
      “Ni ở trong chùa này một mình [...]. Quí khách thử tưởng tượng đêm vắng, không một tiếng động, chùa rộng hơn nhà thường, lại có phòng thờ các linh, nếu không đủ tinh tấn thì dễ buồn chán biết bao.”  (trang 23)
      [...]
      “Tiểu bang này lắm mưa,nhiều khi một mình ngồi ngó mưa rơi, ni nghĩ rằng từng giọt mưa là từng linh hồn con người nghiêng mình rớt xuống để nhập làm một với Đại Ngã là sông, biển.Chết là giai đoạn hủy xác, hồn về lại nơi phát sinh. Chết sống chỉ là những giai đoạn du hành rong chơi của tiểu linh hồn.” (trang 25)
     Truyện Có Khi Biển Lặng kể lại một chuyến vượt biên của nhiều người trên một con tàu thường khi chỉ để chạy trên sông. Hãy nghe một anh chàng trên tàu triết lý mang hơi hường Phật pháp, về ý niệm nghiệp:
      “Sống chết cả tàu là do cộng nghiệp tất cả người trên tàu, không phải phước hay hung của một vài lời nói. Cộng nghiệp tức là tổng số phước trừ đi tổng số hung của từng người trên tàu. Trừ qua trừ lại còn nhiều phước thì cả đoàn thoát, còn nhiều hung thì họa tới cho cả đoàn...” (trang 29)
     Ý niệm nghiệp cũng được nhận ra trong truyện Ông Đạo Chuối khi Ông Đạo nói với con chó tên Tuệ của mình:
      “Thôi Tuệ à! Đừng buồn nữa con. Đó là cái nghiệp của Thầy. Nếu họ không đốt chùa, thì có thể Thầy cũng bỏ chùa mà đi thôi. Tuệ có thấy thầy chớm phạm tội không vậy?” (trang 97)
Chữ nghiệp còn trở đi trở lại vài lần trong suốt truyện từ đầu đến cuối:
      “... Nhiều khi con muốn nhảy liều xuống giếng, xuống sông, nhưng nghĩ bỏ lại con thơ dại trên đời thì tạo thêm nghiệp nặng khác nên nuốt nước mắt mà sống qua ngày.” (trang 104)
“Tôi từ giã sư ra về mà trí như mông lung. Nắm tay con, tôi thầm nói: Sư giảng dạy nhiều nhưng đệ tử thu nhận không được bao nhiêu vì còn mang nặng nghiệp chướng.” (trang 108)
     Một truyện khác, Tiếng Hát Người Tín Nữ Ni Sư, nhân vật chính cô Nguyện phải chịu khổ nạn cả đời mù lòa và gương mặt bị tàn phá thê thảm vì nghiệp cô quá nặng:  cô bị đánh ghen vì lấy chồng người khác. Ông lão, mà trong mơ màng cô tin là Phật xuất hiện đã nói với cô:
“Con dao động vì xót xa đời con nhiều chướng nghiệp. Ta biết! Nhưng chướng nghiệp người  đời ai mà không có đâu con. Chướng nghiệp tới không do con tạo kiếp này thì nên quên nó và tha thứ cho người gây hại; chướng nghiệp tới do con huấn tập kiếp này thì nên thành tâm sám hối.” (trang 121)
     Tôi có cảm giác chữ “nghiệp”  của Phật giáo bao trùm hầu hết tập truyện này, dù nó có xuất hiện hay không. “Văn dĩ tải đạo” có là khiên cưỡng lắm không khi tôi nói về quyển truyện này?  
Nhà văn Sơn Nam, Ông Già Nam Bộ, xuất thân từ miền Tây, có hạt-bụi-nghiêng-mình; nhà văn Nguyễn Văn Sâm, xuất thân từ Sài Gòn, một kiểu ông già Nam Bộ khác (với tôi), có giọt-nước-nghiêng-mình. Bụi bay mông lung đâu đó rồi cuối cùng cũng nghiêng-mình rơi về đất, đất mẹ. Giọt nước nghiêng-mình trong gió bão rồi cuối cùng cũng rơi về sông, sông mẹ. Đại-ngã là đất, là sông, là biển, là quê nhà, là hồn cốt của dân tộc. Con người dù có đi trăm hướng ngàn phương nhưng nếu tận đáy lòng vẫn còn giữ được cái bản sắc cái hồn cốt ấy của mình thì chắc rằng quê hương không mất. Đây có lẽ là điều tinh túy nhất còn đọng lại trong tôi khi khép lại quyển sách.
     Trên đây chỉ là một vài cảm nhận ban đầu khi tôi đọc tập truyện mới nhất của thầy cũ của mình. Tôi học thầy Nguyễn Văn Sâm suốt hai năm ở Đại học Văn Khoa Saigon: Văn Học Nam Hà năm thứ nhất, niên khóa 1972-1973, và Các Tôn Giáo Ở Miền Nam năm chứng chỉ Văn Minh Việt Nam, niên khóa 1973-1974. Tôi nhớ hồi đó thầy chưa viết văn, vì nếu có viết thì thầy chắc đã giới thiệu cho đám sinh viên chúng tôi đọc. Sau cuộc đổi đời năm 1975, có nhiều thứ đã rơi rớt khỏi trí nhớ của mình vì cơm áo gạo tiền, Văn Học Nam Hà chỉ còn lờ mờ trong tôi những cái tên Đào Duy Từ, Lũy Thầy, Ngọc Hân Công Chúa, Ai Tư Vãn..., còn nội dung thì không nhớ gì rõ ràng. Chữ của thầy trả hết cho thầy!  Rồi tôi gặp lại Thầy sau đúng 50 năm, nhưng trước đó, năm ngoái, qua messenger tôi có nói chuyện với Thầy sau 49 năm không còn học và gặp thầy. Mừng thầy vẫn khỏe mạnh minh mẫn và bút lực vẫn dồi dào. Tôi muốn đọc thêm nữa những truyện với giọng văn rặt từ ngữ và cách nói Nam-kỳ của Thầy, không phải vì tôi phân biệt vùng miền, mà vì với riêng tôi, những gì thuộc về bản sắc Nam kỳ phải được trân trọng và gìn giữ.
 

– Ngọc Bút

(Saigon, 09.02.2023)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Có Tự ngã không? Đức Phật dạy: Có nghiệp được tạo tác, có quả dị thục được lãnh thọ, nhưng không có người tạo tác, không có người lãnh thọ. Phật giáo không cho có cái gọi là Tự ngã, tiểu ngã, đại ngã, linh hồn, nhưng tin có “Nghiệp mang theo” để “trả quả”. Cái gì mang Nghiệp theo? Thần thức tái sinh, luân hồi?
Cuốn Hồi Ký dày khoảng 500 trang, khổ lớn, với phần biên tập và thiết kế sách của Trịnh Y Thư, phần thiết kế bìa của Nina Hòa Bình Lê, và gồm 7 phần chính, ngoài Lời Ngỏ và Kết Từ. Phần I, tác giả nhớ lại thời còn ở Hà Nội trước năm 1954 với bố mẹ và anh chị; Phần II kể về chuyến di cư đầu đời một thân một mình của cô gái 16 tuổi từ Hà Nội vào Sài Gòn, lập gia đình và những cơ duyên đưa đẩy vào ngành nghệ thuật điện ảnh Miền Nam trước năm 1975; Phần III kể chuyện lưu vong ra hải ngoại trong biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, làm người tị nạn Việt Nam đầu tiên tại Canada, với hai bàn tay trắng làm lại cuộc đời và những phấn đấu gian lao cực khổ để bước vào sân khấu điện ảnh lộng lẫy của Hollywood; Phần IV thuật lại những chuyện vinh quang trong sự nghiệp điện ảnh và những buồn vui của bản thân, gia đình, và những mối giao tình với bạn bè trong cuộc sống tại Hoa Kỳ; Phần V kể chuyện “đứng dậy, đứng thẳng, đi tới” sau những lần vấp ngã để trở thành nhà diễn thuyết khắp thế giới,
“Nước hiện cũng ở quanh tôi, quanh anh chị. Nó ở ngay trang sách này mà ta đang đọc. Ở trong màn hình tôi đang nhìn, trong bàn phím máy computer tôi đang gõ, ở trong cái áo cái quần tôi đang mặc, trong bức tranh trên trên tường…, kể cả trong cái đinh đóng trên đó. Tôi không thấy nó vì tôi ít khi chịu khó nhìn kỹ để thấy nó. Nhưng có điều bây giờ tôi biết rất rõ rằng: không có nước thì cái thằng tôi này cũng không có; không có nước thì cũng không có anh, không có chị ngồi đó mà đọc trang sách này. Cái bàn, cái ghế, cái cây, cái đám mây ngoài kia… cũng không tuốt.” (tr. 158) Không chỉ có vậy đâu mà còn nhiều nữa. Văn Công Tuấn, trong tác phẩm “Chớ Quên Mình Là Nước,” đã dẫn người đọc từ chuyện đất và nước trong đời thường, trong khoa học, trong văn chương tới chuyện đất và nước trong lãnh vực quốc gia dân tộc, từ chuyện đất và nước trong triết học với bản thể và diệu dụng của nước, bước sang chuyện lấy cơ duyên đất và nước để nói đến chuyện thực chứng tâm linh để giác ngộ và giải thoát
Tôi cố ý tìm tòi và trích dẫn nhiều ý kiến của Nguyễn Hiến Lê và cảm nhận về từng tác phẩm Nguyễn Hiến Lê của nhiều tác giả khác. Tôi rất mong được cung cấp càng nhiều thông tin, sự kiện, chi tiết liên quan đến tác phẩm càng tốt, để tiện việc tham khảo và nghiên cứu về Nguyễn Hiến Lê.
Kể từ tập thơ Vườn Dĩ Vãng ấn hành năm 1972 của thời trai trẻ phục vụ trong quân ngũ nơi quê nhà cho đến tác phẩm Hồi Sinh thực hiện năm 2020 nhưng vì trục trặc kỹ thuật, ấn hành năm 2021 nơi xứ người, nhà thơ Trần Văn Sơn đã trải qua cuộc hành trình từ những bài thơ xuất hiện trên trang báo ở Sài Gòn vào giữa thập niên 60 cho đến thời điểm ấn hành tuyển tập nầy với thi ca hơn nửa thế kỷ.
Trong tuyển tập “Vằng Vặc Một Mảnh Lòng,” có nhiều bài rất giá trị mà cũng khó tìm, như bài “Lời Giới Thiệu Luận Án Tiến Sĩ Phật Học Đại Học Bihar - Ấn Độ, 1961 Của Tỳ Kheo Thích Minh Châu: So Sánh Kinh Trung A Hàm Chữ Hán và Kinh Trung Bộ Chữ Pali do vị Viện Trưởng, Tân Tòng Lâm Nalanda S. Mookerjee viết vào ngày 23 tháng 3 năm 1964, và Thích Nữ Trí Hải dịch Việt. Hoặc như bài “Huyền Trang Và Công Cuộc Thỉnh Kinh Vô Tiền Khoáng Hậu Của Nhân Loại” của học giả Nguyễn Hiến Lê, và bài “Như Lai Vô Sở Thuyết” của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan.
Khi đọc bài “Bên Bờ Tử Sinh” của nữ văn sĩ Đỗ Dung thuộc Ban Điều Hành diễn đàn Minh Châu Trời Đông, tôi cũng thấy lòng nhẹ nhàng theo, tác giả bị căn bệnh hiểm nghèo bác sĩ nói chỉ sống thêm vài năm nữa, mà nhờ nhiếp tâm thiền định, chẳng những thoát khỏi cây cầu sinh tử mà tác giả còn sống yêu đời và trở thành một nhà văn với nhiều sáng tác đi vào lòng độc giả.
Nguyễn Hưng Quốc cho rằng “Nhà thơ không làm ra chữ, chính chữ làm nên nhà thơ.” Vế thứ hai của bài thơ này thì có vẻ dễ hiểu, bởi vì chính người làm ra bài thơ thì mới được gọi là nhà thơ. Nhưng vế đầu của bài thơ thì không dễ hiểu tí nào cả, bởi vì “nhà thơ không làm ra chữ,” thì nhà thơ làm ra gì? Có lẽ chúng ta nên quay lại mật thất thứ hai trong đó ghi những bí quyết làm thơ thì chắc có câu trả lời. Đúng vậy, trong mật thất thứ hai, Nguyễn Hưng Quốc nói anh “hóa kiếp thành chữ,” và “nhập thể vào chữ.” Bởi thế, nhà thơ không còn đứng ngoài chữ để nói mình làm ra chữ. Nhà thơ là chữ. Chữ là nhà thơ. Và do vậy, nhà thơ họ Nguyễn mới nói “Bao giờ hắn cũng muốn viết một cái gì đó, nhưng chỉ khi hắn không viết, hắn mới thực là nhà thơ.”(649) Cao siêu! Đây quả là cảnh giới thượng thừa của nghệ thuật. Trong “909 Bài Thơ Ba Dòng” có nhiều điều khác mà Nguyễn Hưng Quốc cảm tác về tình yêu, chuyện vợ chồng, biển, sóng nước, mây, gió, trăng, mưa, mùa thu, lá vàng, nắng, hoa, sương đêm,
Đọc những truyện ngắn Trần Doãn Nho viết từ trước 1975 đến thời gian gần đây, có thể thấy anh sáng tác trong ý thức sâu sắc về thể loại và nghệ thuật viết truyện ngắn. Truyện của anh luôn có sự đầu tư công phu về ý tưởng, hình ảnh, ẩn dụ, chủ đề… lồng trong cấu trúc chặt chẽ của tổng thể, trong đó các yêu cầu về miêu tả, tường thuật, đối thoại, diễn tiến, tư tưởng giữ một tỷ lệ hài hoà và hữu hiệu.
Nội dung của 60 bài pháp được nữ sĩ Ryoun Jokan ghi chép lại trong suốt năm nhập thất (đại kết thất) 1690, trước khi Thiền Sư Bankei Yotaku viên tịch 3 năm, là những việc hỏi đáp giữa Thầy và trò, giữa Thiền Sư và võ sĩ đạo, giữa người mù và người sáng mắt, giữa chấp có và chấp không v.v… chung quy là Tâm ấy chẳng sanh và Tâm ấy chẳng diệt. Tâm ấy cũng còn gọi là Phật Tâm hay Tâm Phật không sanh, Tâm Phật không diệt.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.