Hôm nay,  

Giới Thiệu Sách: Việt Nam, “A History From Earliest Times To The Present”

05/05/202300:00:00(Xem: 2352)

 

Viet nam book
Việt Nam, A History From Earliest Times To The Present, Oxford University Press, 2017.
 
Tác giả là Ben Kiernan, sinh năm 1953, từng là Giáo sư “Sử học và Các Môn Học Quốc tế và Vùng” tại Đại học Yale nổi tiếng. Ông từng lập ra Chương trình về Diệt Chủng Cambodia và Chương Trình Nghiên Cứu Về Diệt Chủng. Sách của ông trước đây bàn về diệt chủng ở Cambodia cũng như trong những giai đoạn khác của lịch sử loài người.

     Kiernan đến thăm Campuchia khi mới ngoài 20 tuổi, nhưng rời khỏi nước này trước khi Khmer Đỏ trục xuất tất cả người nước ngoài vào năm 1975. Ban đầu ông nghi ngờ về quy mô diệt chủng được báo cáo sau khi Khmer Đỏ nắm quyền, nhưng ông đã đổi ý vào năm 1978 sau khi phỏng vấn hàng trăm người tị nạn từ Campuchia. Ông học tiếng Khmer, tiến hành nghiên cứu ở Campuchia và những người ra tị nạn ở nước ngoài, và từ đó đã viết nhiều sách về chủ đề này.

     Từ năm 1980 trở đi, Kiernan làm việc với Gregory Stanton, một giáo sư chuyên nghiên cứu về diệt chủng và ngăn ngừa diệt chủng để đưa Khmer Đỏ ra trước công lý quốc tế. Ông lấy bằng Tiến sĩ tại Đại học Monash ở Úc vào năm 1983. Năm 1995, một tòa án Khmer Đỏ đã truy tố, xét xử và kết án vắng mặt Kiernan vì tội "truy tố và khủng bố những người yêu nước kháng chiến Campuchia".

     Tác giả muốn trình bày sử Việt Nam với một tầm nhìn sâu xa hơn trước đây: "Những chân trời lâu dài hơn – thường là lâu hơn nhiều – một thế hệ, một đời người, hoặc những chiều dài đại khái căn cứ trên cuộc sống (biological time-spans) đã từng định nghĩa đa số các bài viết về lịch sử gần đây". Có những trang thú vị về ngôn ngữ Việt Nam, các nhóm thiểu số miền Cao Nguyên và tương quan giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á. Tác giả "đánh giá Việt Nam không chỉ trong những mối tương quan chính trị và văn hoá lâu dài với Trung Hoa, mà còn trong bối cảnh của lịch sử Đông Nam Á Châu và toàn cầu, kể cả lịch sử môi trường" (trang 6).

     Tác giả đề ra 3 yếu tố liên tục dài hạn (themes of long-term continuity, perennial themes) của lịch sử Việt Nam:

     1) Môi Trường: Vai trò rất quan trọng của “văn hoá nước”, gồm biển, sông, hồ... đời sống chung quanh đồng lúa nước, giao thông trên sông rạch, con trâu trầm mình dưới nước. Một  đặc tính của tác phẩm này là sự bao hàm của nó về lịch sử môi trường và ngôn ngữ. “Tác giả giải thích một cách hiệu quả địa lý và các thay đổi thời tiết (hạn hán, v.v.) ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của lịch sử và chứng minh làm thế nào sự thay đổi ngôn ngữ theo thời gian cung cấp thông tin về quá khứ của Việt Nam”.

     2) Tiếng Việt từ thời Pro-Vietic trên 2000 năm trước cho đến tiếng Việt thời hiện đại, cũng như Tiếng Chăm và Khmer vẫn được sử dụng trong một số cộng đồng ở Việt Nam.

     3) Huyết thống: Trung thành với gia đình, dòng họ, theo tác giả còn mạnh hơn ở Trung Hoa.

     Khác với Keith Taylor, Kiernan viết về sự liên tục trong ngôn ngữ và văn hoá Việt: "Từ thiên niên kỷ đầu trước Công nguyên trở về sau, dân chúng trong một số phần của vùng này [lãnh thổ Việt Nam] nói những ngôn ngữ Proto-Vietic và Vietic, là những ngôn ngữ tổ tiên của các phương ngữ của tiếng Việt hiện đại, tuy thuộc về thời sơ khởi nhưng vẫn có thể nhận diện được một cách khoa học. Và [điểm] thứ ba [về tộc hệ], mặc dù các cá nhân hay các nhóm lắm khi di chuyển và có thể học nói hay chuyển từ một ngôn ngữ này qua ngôn ngữ khác qua thời gian, một số di sản về họ tộc (genealogical heritage) và những sở thích riêng về văn hóa (cultural affinities) vẫn tồn tại dễ dàng như ngôn ngữ của họ vậy." (trong “Introduction”, trang 7).

     Ngoài ra , tác giả đưa ra 7 yếu tố lịch sử “có tính cách biến đổi” gọi là "seven transformative historical forces":

     1) Sự đô hộ của Tàu trong thiên niên kỷ đầu tiên.

     2) Thay đổi khí hậu: Nước Đại Việt, sau khi tách rời khỏi Đế Quốc Trung Hoa vào thế kỷ thứ 10, được hưởng cái gọi là "Giai đoạn Ấm thời Trung Cổ" (Medieval Warm Period); trong nhiều thế kỷ mưa nhiều hơn làm thu hoạch lúa cao hơn trong nước cũng như ở các nước lân cận, và tạo cơ hội cho những quốc gia nông nghiệp thành hình. Đến nỗi, dù thời kỳ ấm này đã chấm dứt, Đại Việt đã tích lũy đủ sức mạnh để chống đỡ được các cuộc xâm lăng của Tàu (Nhà Minh) và Chàm, không những thế còn mở rộng bờ cõi của mình về phía nam.

     Giai đoạn khí hậu ấm thời trung cổ kéo dài 3 thế kỷ từ năm 850 cho đến năm 1250, sau đó khí hậu lạnh hẳn xuống và được gọi là "Thời đại băng đá nhỏ" cho tới năm 1850. Hiện tượng này được cho là xảy ra ở vùng bắc Đại tây dương và Âu Châu nhưng cũng xảy ra ở vùng Đông Nam Á, tuy chuyện này còn được tranh luận. Có thuyết cho rằng, thời tiết thuận tiện cho trồng trọt và cho việc sinh sản tăng dân số là những yếu tố quan trọng từ cuối thế kỷ thứ 10 cho đến thế kỷ thứ 13, thời mà Việt Nam (Đại Việt) mới tách khỏi lệ thuộc phương Bắc, và vương quốc Chăm phát triển ở phía nam. Thời này cũng là những năm thịnh vượng ở Cambodia (Angkor của người Khmer), Miến Điện (Pagan), với những đền đài hoành tráng được dựng nên, tương tự như những nhà thờ ở Kiev hay các vùng tây nước Nga, cũng như những đền đài vĩ đại ở Ấn độ. (Theo "Asian Expansions: The Historical Experiences of Polity Expansion in Asia", edited by Geoff Wade).

     3) Di dân từ vùng này qua vùng khác. Từ cuối thế kỷ thứ 15, các nhóm quân sự cũng như dân sự tiếp tục định cư các vùng đất Chàm. Ngược lại, những cộng đồng Chàm bị ép buộc di dời vào vùng đất người Việt; ví dụ 3 làng người Chăm bị ép buộc di dời vào Nghệ An những năm 1250, và 7 thế kỷ sau, một “ốc đảo” Chàm vẫn còn được một học giả người Pháp nhận diện ra. Mặc dù họ đã đổi qua nói tiếng Việt, vẫn còn những nét văn hoá Ấn giáo tồn tại trong nếp sống của họ. Hay vào thế kỷ thứ 19, những người từ bắc vào định cư ở đồng bằng sông Cửu Long cũng đã hấp thụ các phong tục, tín ngưỡng cũng như kỹ thuật cày cấy của người Khmer.

     4) Việt Nam càng bành trướng về phía nam thì vai trò của biển trong nền kinh tế càng phát triển. Sau khi chiếm được phần lớn lãnh thổ Chàm, người Việt đi từ một “thế giới sông” tập trung ở quanh vùng châu thổ sông Hồng qua một thế giới mở rộng ra vào một trong những đường hàng hải quốc tế trên đại dương thuộc loại lớn nhất thế giới, là nơi chuyên chở hàng hóa từ Nhật, Trung Hoa, Đông Nam Á, Ấn Độ và Trung Đông.

     5) Càng "Nam Tiến", các khác biệt giữa 3 miền sẽ có những điểm khác biệt rõ nét hơn. Ví dụ những phương ngữ của tiếng Việt sẽ bị ảnh hưởng vì dân ở 3 miền trước đó từng nói 3 thứ tiếng khác nhau: Việt ở miền bắc, Chàm ở miền trung và Khmer ở miền nam.

     6) Vẫn có sự dị biệt dai dẳng về lịch sử và chính trị giữa người Việt (“ethnic Vietnamese”): Đàng Trong, Đàng Ngoài thời Trịnh Nguyễn phân tranh thế kỷ 17-18; Miền Nam là thuộc địa Pháp trong lúc Miền Trung và Bắc chỉ là vùng bảo hộ vẫn dưới sự cai trị của triều đình Huế; hai chế độ cộng sản và tự do thời 1945-1975. Những dị biệt này chối bỏ ý niệm của một "quá khứ đơn độc cho Việt Nam" ("Many voices that undermine a single Vietnamese past" – Keith Taylor).

     7) Hiện tượng toàn cầu hoá của kinh tế, văn hoá và chính trị Việt Nam, ví dụ ảnh hưởng của tư tưởng, kỹ thuật và chữ viết từ Tây phương, nhất là trong thế kỷ thứ 20 và 21.

     Một trường hợp điển hình trong cố gắng nhìn đa diện của Ben Kiernan là chân dung Tổng Thống Ngô Đình Diệm (trang 407). Thay vì mô tả Tổng Thống Diệm như một "ông quan, một nhà Khổng giáo cuối cùng", tự cho mình thừa hưởng "Thiên Mệnh" để cầm quyền như các sách báo Mỹ thường làm trước đây, Kiernan viết:

     "Ông Diệm và người em bí ẩn của ông, ông Nhu, là những chính trị gia của thế kỷ thứ 20. Mặc dù họ chống chủ nghĩa thực dân, các ý thức hệ châu Âu ảnh hưởng đến họ không kém gì tư tưởng Việt Nam và Khổng giáo. Các tin tưởng Công giáo có địa vị cốt lõi trong cả hai người, cũng như các tín điều của ông Nhu về chủ nghĩa nhân vị và những điều ông vay mượn từ học thuyết chống nổi dậy của thực dân Pháp kể cả chuyện tiên phong các ‘ấp chiến lược’. Hai anh em phô bày một quan tâm từ lâu về tổng hợp các yếu tố văn hoá Đông và Tây trong một triết lý chính trị hiện đại. Một người quan sát thời đó cho rằng ông Diệm là một hỗn hợp quý tộc giữa một Nho sĩ-nhà lãnh đạo tầm cỡ, một triết gia-vương quân kiểu Plato và một người Thiên Chúa giáo sùng đạo (nguyên văn: an aristocratic amalgam of a “Confucian scholar-statesman, a Platonic philosopher-king and a devout Christian).” ( trang 407). Tác giả cũng nhắc lại những lời nhận xét không lạc quan mấy về chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa của sĩ quan liên lạc tình báo Mỹ Edward Lansdale từng ủng hộ Tổng Thống Diệm ("An emerging fascist state, more messianic than Confucian") (trang 408); và của sử gia Việt Trương Bửu Lâm là người từng làm giáo sư sử học tại Sài Gòn và đi khắp nhiều vùng ở Nam Việt Nam để nghiên cứu vào những năm 1956-1957.

     So với các sách A History of the Vietnamese (Cambridge University Press, 2013) của Keith Taylor; Vietnam A New History (Việt Nam Tân Sử, Basic Books 2016) của Christopher Goscha từng giới thiệu trong hai bài trước, Kiernan bàn nhiều hơn về các vấn đề văn hoá xã hội.

Nhà Tây Sơn được bàn đến rất chi tiết trong 10 trang của chương 7, với những cải cách như dùng chữ Nôm, hệ thống trường chữ Nho, dùng thẻ thông hành… Đoạn này có lẽ do ảnh hưởng của sử gia George Dutton, tác giả của cuốn sách “The Tay Son Uprising: Society and Rebellion in Eighteenth-Century Vietnam” (2006), được xem là tài liệu tiếng Anh mô tả chi tiết nhất cuộc sống vào thế kỷ thứ 18 không chỉ ở Việt nam mà luôn cả vùng Đông Nam Á.
 
tay son
The Tay Son Uprising: Society and Rebellion in Eighteenth-Century Vietnam” (2006) của sử gia George Dutton.
 
Các nhân vật phụ nữ được đề cập với nhiều chi tiết. Ví dụ nữ tướng Bùi Thị Xuân cưỡi voi và bị xử tử do voi chà; riêng nữ sĩ Hồ Xuân Hương được dành riêng 3 trang trong sách sử này, với trích dẫn của 10 bài thơ khác nhau. Có lẽ những “cameo” lịch sử như vậy có thu hút sự hiếu kỳ hay ngưỡng mộ của người phương tây mà đối với xã hội của họ vai trò người phụ nữ có cá tính, trên chiến trường như Bà Trưng, Bà Triệu hay bà Bùi Thị Xuân, hay nổi loạn trong văn chương như Hồ Xuân Hương là những điều hiếm thấy ở Tây phương ngay đến những thập niên gần đây.

     Tóm lại đây là một cuốn sách sử có tham vọng bao trùm hết chiều dài lịch sử Việt Nam, muốn đưa độc giả tây phương ra khỏi tầm nhìn ngắn hạn của Việt Nam như là một bãi chiến trường đẫm máu thời chiến tranh lạnh. Tác giả nhấn mạnh về vai trò yếu tố môi trường, nhất là khí hậu, thời tiết, địa lý (sông nước), một điểm thời thượng hiện nay khi mà các vấn đề "hâm nóng toàn cầu" đang gây tranh cãi. Các ảnh hưởng văn hóa trên lịch sử có thể thú vị với độc giả Việt; các sách sử tiếng Việt ít đề cập đến các nền văn hoá khác ngoài Trung Hoa như Ấn Độ, Miên, Chàm, Đông Nam Á. Sách không quên vai trò của phụ nữ, một điểm không mới trong đất nước của Bà Trưng , Bà Triệu, nhưng lại là một điểm mới mẻ và thu hút cho độc giả tây phương đang sôi nổi về bình đẳng giới tính và nữ quyền.
 
– Hồ Văn Hiền
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đọc xong đã lâu, định bụng sẽ viết những cảm nhận nhưng cứ lần lữa hoài. Dẫu biết rằng “Phò mã tốt áo” không cần phải khen, nói chỉ thêm dở, tán thêm tệ, viết lại thừa nhưng không viết thì tâm cảm thấy không yên. Cuối cùng rồi tôi cũng thắng được sự lười biếng để ngồi xuống trang trải chút tâm ý với đời. Cuốn Trong Những Thoáng Chốc dày 350 trang là tập tùy bút và tạp ghi của nhà văn Vĩnh Hảo. Vĩnh Hảo là một cây bút đầy nội lực và sung mãn, anh viết trong suốt mấy chục năm ở hải ngoại. Anh đã cho xuất bản 13 tác phẩm văn và thơ, ngoài ra còn có hàng trăm bài viết khác trên các trang mạng của bạn bè. Anh còn có trang web www.vinhhao.info lưu giữ tất cả những sáng tác. Vĩnh Hảo vừa là họ tên và cũng là bút danh.
Đọc xong hai quyển “Theo dấu thư hương” và “Chỉ là đồ chơi” của nhà văn Trịnh Y Thư đã lâu, trong lòng cảm hứng muốn viết một chút cảm nhận nhưng cứ bận bịu nên lần lữa mãi. Thật ra mà nói thì tôi cũng không biết viết như thế nào và bắt đầu từ đâu, đây là lần đầu làm cái việc viết cảm nhận về sách. Tôi biết mình không có khả năng đọc sâu, nhìn nhận hay phân tích. Tôi xưa nay vốn đơn thuần dùng cảm tính chứ chẳng biết dùng lý tính nên cứ mơ hồ ngu ngơ...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Tiểu Lục Thần Phong, tên thật là Nguyễn Thanh Hiền, sinh năm 1971, nguyên quán Diêu Trì, Bình Định, hiện sinh sống tại Georgia, Hoa Kỳ, là cây viết sung sức và quen thuộc của các báo Chánh Pháp, Việt Báo (California), Trẻ (Houston, Texas)... Đã xuất bản 10 tác phẩm gồm Văn, Thơ và nhiều tác phẩm in chung khác...
Phê Bình . Nhận Định -- BÙI VĨNH PHÚC -- VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2024...
NGÔ THẾ VINH, BẰNG HỮU VÀ VĂN CHƯƠNG là tuyển tập đặc biệt thứ ba, do tạp chí Ngôn Ngữ hân hạnh đứng tên xuất bản và phát hành rộng rãi...
Trong 3 thập niên qua, trong lãnh vực văn học nghệ thuật với văn, thơ, âm nhạc... tôi đã viết về tác giả, tác phẩm cho các tờ báo cộng tác và đảm trách sau đó được phổ biến trên các website & blogspost...
Gọi là “Hạnh ngộ” vì đây là sự kiện thi ca hiếm có xảy ra tại Việt Nam, do một cá nhân, chính là dịch giả chuyển ngữ đề xướng và được hơn 240 tác giả thơ ở khắp nơi trong nước và 60 tác giả thơ hải ngoại, sinh sống và làm việc tại 7 quốc gia trên thế giới cùng “gặp nhau” trong một tuyển tập “đồ sộ” song ngữ Việt-Anh, mang tên “Nhịp Điệu Việt / The Rhythm of Vietnam”...
Chiến tranh đã đi qua gần nửa thế kỷ và nay chúng ta đang sống trong giai đoạn 4.0 nên thế giới phẳng. Nhờ đó có sự kết nối giao lưu tương tác giữa những người có cùng sở thích. Trong số những tín đồ thi ca, tác giả Ngọc Trân là một trong những cây bút sáng tác nhiều thơ trữ tình. Gần đây anh có gửi cho tôi bản thảo tập thơ Tìm Lại Dấu Xưa sắp xuất bản có trên 100 bài...
Giáo sư Nguyễn Văn Sâm vừa ấn hành một tác phẩm có nhan đề sách rất dài: “Tuồng Bảy Mối Tội Đầu của LM Hồ Ngọc Cẩn và Tuồng Joseph – 1887 của Trương Minh Ký.” Cuốn sách này là tuyển tập 2 vở tuồng được viết trong tinh thần Công Giáo của vùng đất Nam Bộ của thời kỳ cuối thế ký thứ 19 và đầu thế kỷ 20. Đây là ấn bản 2023 do GS Nguyễn Văn Sâm giới thiệu và chú giải.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.