Tác phẩm “Thế Sự Thăng Trầm” của Trần Bảo Anh

25/03/202321:39:00(Xem: 1282)
Điểm sách

baoanh


Tác phẩm Thế Sự Thăng Trầm của Trần Bảo Anh, dày 280 trang, gồm các bài viết: Đẹp & Xấu, Thời Gian Hiện Tượng & Sự Tái Diễn, Từ Chối, Ngô Văn Định Lữ Đoàn Trưởng LĐ 258 TQLC, Chiến Thắng Phượng Hoàng, Ảnh Hưởng Của Lời Nói, Nói Chuyện Anh Hùng, Tôi & Ý Trời, Những Chuyện Can Đảm Cổ Kim, Cách Suy Nghĩ Của Một Người Công Chức, Lương Tâm & Lòng Tận Tụy, Bằng Trời Bằng Bể, Yêu & Rất Yêu, Đang Ở Nơi Khác, Đắc Thế Thất Thế & Tư Cách…

 

Bốn chữ Thế Sự Thăng Trầm trong hai câu thơ của Cao Bá Quát “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn. Yên ba thâm xứ hữu ngư châu” (Cuộc đời thăng trầm lên xuống, bạn đừng hỏi. Chốn thâm sâu khói sóng, buông thuyền câu) rất quen thuộc với mọi người nên có vài tác giả sử dụng trong mục Phiếm. (Trong các mục phiếm của tôi trước đây như Chuyện Ruồi Bu, Thiên Hạ Sự, Ngẫm Chuyện Nhân Sinh, Thế Thái Nhân Tình… cũng có Thế Sự Thăng Trầm) vì vậy khi nhận được tác phẩm, cảm thấy “gần gũi” với tựa đề.


Tác phẩm Thế Sự Thăng Trầm của Trần Bảo Anh (tên thật Tường Vi) qua các bài viết với hồi ký, tạp ghi, cảm nghĩ… trải qua ba giai đoạn trước, sau năm 1975 và thời gian tỵ nạn tại Hoa Kỳ.

 

Tác giả xuất thân từ Nữ Hộ Sinh Quốc Gia ở Sài Gòn, có thời gian phục vụ trong Quân Y Viện Long Xuyên, nối gót hai người anh là BS Trần Xuân Ninh, BS Trần Xuân Dũng nên cầm bút viết văn khi về hưu.

 

baoanh 2

 

Trần Xuân Ninh, bác sĩ giải phẫu nhi khoa của bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn. Trước ngày 30/4/1975 gia đình ra Vũng Tàu di tản nhưng bất thành. Sau tháng 4/1975 bị tù trong 27 tháng. Tháng 8 năm 1978, vượt biển, định cư tại Mỹ. Nhiều bài viết của ông được phổ biến trên các websites. Sau nầy, ông nghiên cứu về Phật Giáo.

 

Bác Sĩ Thiếu Tá Trần Xuân Dũng phục vụ trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, Y Sĩ Trưởng của Chiến Đoàn B TQLC. Thời còn sinh viên đã sinh hoạt văn học nghệ thuật trong tờ Tình Thương của các Sinh Viên Y Khoa.

 

Hai anh em trong ngành Y Khoa, sau thời gian lao tù tuy được trưng dụng nhưng không thể chấp nhận cuộc sống dưới chế độ Cộng Sản nên tìm đường vượt biên. Và, người em gái Trần Bảo Anh đã bỏ nghề, vượt biên. BS Trần Xuân Ninh & Trần Bảo Anh định cư ở Mỹ. Trong bài Ba Mươi Tháng Tư, BS Trần Xuân Ninh viết: “Sau chuyến vượt biển mùa bão thoát chết những đợt sóng dâng cao như trái núi, nhưng mất đứa con trai hai tuổi rưỡi vì chết khát 10 tiếng đồng hồ trước khi may mắn lên đảo Pag Asa (đảo Hy Vọng) do Phi Luật Tân chiếm giữ trong quần đảo Trường Sa. Gia đình tôi gồm một vợ hai con gái 3 và 5 tuổi với một cô em gái, là một trong những gia đình thuyền nhân đầu tiên được vào Mỹ, vì lý do nhân đạo, sau khi phái đoàn Úc từ chối không nhận cho sang Úc mà ước vọng lúc đó là để làm nông dân ở xứ đất rộng người thưa”.

Vì vậy trong hai trăm trang (2/3 của tác phẩm), những bài viết về người lính, nhất là binh chủng Thủy Quân Lục Chiến của Trần Bảo Anh như “người lính cầm bút”.

 

Trước khi đề cập đến tác phẩm Thế Sự Thăng Trầm của Trần Bảo Anh, trích hai bài viết của BS Trần Mộng Lâm và BS Thân Trọng An. Bạn văn với nhau từ tờ Tình Thương.

Trích bài viết của BS Trần Mộng Lâm: Nhật Ký Của Một Nữ Hộ Sinh.:

“… Sau 75, nhiều hồi ký đã xuất hiện. Có những người trong quân đội nói về các trận đánh, có những cựu học sinh nói về mái trường của mình, có Chu Văn An, có Petrus ký, có Phan Thanh Giản, Đoàn Thị Điểm, có Y Khoa, có Dược Khoa, nhưng có một cái trường mà thú thật, đây là lần đầu tiên tôi được thấy, tôi được đọc, đó là trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia.

 

Tôi vừa nhận được từ tác giả cuốn sách đó. Cuốn sách mang tên Thế Sự Thăng Trầm. Tác giả là Trần Bảo Anh. Thoạt nhìn tên, người ta nghĩ rằng tác giả phải là một người đàn ông đã chín chắn, đã có một kinh nghiệm nào đó với cuộc đời, bởi đã dám đề cập tới thế sự. Bởi những lẽ đó, khi đọc xong, ngạc nhiên được biết tác giả là một phụ nữ, một cựu học sinh của trường Nữ Hộ Sinh. Thế sự thì nhiều vô kể, nhiều mặt, nhiều lãnh vực. Thế nhưng thế sự quan trọng nhất đối với một con người là thế sự liên quan đến  họ và sau đó mới tới thế hệ của họ, nói chung.

 

Vì thế, cuốn Thế Sự Thăng Trầm liên quan đến vận mệnh của một người nữ hộ sinh, học và ra trường, hành nghề tai Miền Nam trong các thập niên 60, 70, trước và sau khi Sài Gòn sụp đổ. Liên quan đến Miền Nam, đến những người công chức, quân nhân, đến những mẩu chuyện đời, xưa và nay đối chiếu. Kể cũng lạ, vì nữ giới ít đề cập tới đề tài này.

 

Trích bài viết của BS Thân Trọng An: Vài Cảm Nghĩ Thô Thiển Sau Khi Đọc:

“… Dù đã tự bảo phải đọc từ từ mà khi lỡ đọc vài trang đầu là tôi quên hết, say sưa đọc luôn một mạch cho hết 280 trang đến gần 3 giờ sáng mới buông ra nổi vì sách quá hấp dẫn và lôi cuốn.

 

Bìa trước và bìa sau như tranh thủy mạc, trích 4 câu thơ của Vũ Hoàng Chương luận chữ “về” khiến tôi liên tưởng đến quyển “Sống Chẳng Còn Quê” của anh Trần Xuân Dũng là bào huynh của tác giả. Sách không “lời nói đầu”, không “lời bạt” chứng tỏ tác giả không câu nệ hình thức kiểu “ước lệ phải đạo”. Cách bàn đến 15 tiểu đề, như 15 tiểu luận, nói chung rất hợp với tâm tư “người tử tế thời VNCH” chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong đạo nghĩa và nhân văn… Nếu lịch sử là những “chuyện lập đi lập lại” (tái diễn) của nhiều biến cố dù có hơi khác nhau vì thời gian hay vì thời thế, thì ta có thể nhận định Thế Sự Thăng Trầm là một quyển sách tản mạn rất nhiều chi tiết lịch sử. Mà là lịch sử từ Á sang Âu, từ Việt Nam sang Pháp, sang Mỹ, từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, hay thời Hán Sở - Tam Quốc, từ Sài Gòn sang Hoa Thịnh Đốn, Từ Long Xuyên đến San Francisco… cũng như tác giả có lúc đi khắp thế giới.

 

*

 

Như đã đề cập ở trên qua những dòng của hai người anh của tác giả Trần Bảo Anh đôi nét về gia đình với dòng thời gian.

 

Trong bài viết Tôi & Ý Trời, tác giả chia sẻ: “Tôi mất mẹ năm lên ba tuổi. Ông nội tôi cùng với ba tôi và ba anh em chúng tôi tìm đường ra Hà Nội để tránh bọn Việt Minh. Ông yêu thương dạy dỗ ba anh em chúng tôi, trong khi ba tôi đi làm. Ba năm sau, ba tôi tục huyền. Đến năm 1954, ông nội và chúng tôi di cư vào Sài Gòn để tránh bọn Việt Cộng” (sđd trang 120). “Tôi bước vào một nỗi khốn khổ khác, vừa đi học, vừa đi chợ, nấu cơm, lau chùi nhà cửa, giặt quần áo, vừa bế em (half sisters, half brother) con bà mẹ kế bên lòng, vừa học bài thi, vẫn còn bị ăn đòn” (sđd trang 121).

 

Năm 1965, khi người anh kế, Nguyễn Xuân Dũng tốt nghiệp bác sĩ và phục vụ trong Quân Y, khuyên cô em vào trường Nữ Hộ Sinh. “Hai anh bàn với nhau cho tôi vào nội trú. Đóng tiền nội trú, hai anh em sẽ cho. Hai anh phải nói dối với ba tôi là học nghề nầy bắt buộc phải ở nội trú và không phải trả tiền. Ba tôi đồng ý cho tôi rời nhà vào nội trú” (sđd trang 120). Sau 3 năm, khi tốt nghiệp “Tôi quyết định chọn Quân Y Viện Long Xuyên… là bệnh viện Quân Đội ((sđd trang 149). Sau ngày mất nước, tác giả được “trưng dụng” nhưng “Sau một thời gian, 7 cô gốc gác vào “biên chế”, trừ tôi. Lời giải thích vì nhà tôi có nhiều Mỹ Ngụy”, tôi phải “phấn đấu, tiến bộ nhiều hơn” (sđd trang 159). Ngày 02 tháng 8, 1978 “Ba giờ chiều hôm ấy tôi đi vượt biên tại Phú Xuân – Nhà Bè, mà sự chết lên đến 99%, vì không thức ăn, không nước uống, không dầu và gặp bão lớn, nhưng còn may mắn không bị cướp. Sàn tàu đã bắt đầu vỡ chỉ còn đáy tàu (con tàu nhỏ chỉ 11x2.5 mét). Sau 7 đêm 6 ngày, tôi đã đến được bến tờ Tự Do Philippines… Bảy tháng sau tôi được định cư ở North California, Hoa Kỳ” (sđd trang 162).

 

Đảm trách tờ báo, vào mỗi dịp hè, tôi chọn các bài viết về vượt biên, vượt biển… để nhớ lại tháng ngày nghiệt ngã, đau thương, phải liều mạng “bỏ nước ra đi”! Bao nhiêu thảm cảnh xảy ra, vô cùng cảm động và xót thương. Tháng 8 năm 2022, anh Bùi Đức Tính ở Canada chuẩn bị ấn hành hồi ký Thuyền Đời qua 23 chương, nhờ tôi viết Lời Giới Thiệu trong tác phẩm. Chiếc ghe số 3392 vượt biển, gặp bão và mấy lần hải tặc đâm nát, chìm trên biển! Anh được may mắn sống còn. Nay hình ảnh vượt biên nầy, tuy tác giả Trần Bảo Anh không ghi nhiều chi tiết nhưng cũng nói lên thảm cảnh của nữ giới phải đối mặt với thảm cảnh xảy ra vì hai chữ “Tự Do”. Với tấm lòng “lương y như từ mẫu”, tác giả đã có thời gian dài phục vụ trong Quân Y Viện, gần gũi, chăm sóc thương bệnh binh trong QLVNCH vì vậy với sự biết ơn và trân quý đó, theo năm tháng nơi hải ngoại, các đề tài liên quan đến Quân Đội, tác giả chịu khó sưu tầm để trích dẫn. Trong bài Những Chuyện Can Đảm Cổ Kim (sđd từ trang 165 đến trang 183), tác giả đề cập đến những hình ảnh: BS Lê Thành Ý, Trung Sĩ Lượm, Thiếu Tá Tô Văn Cấp, Thiếu Tá Lê Quang Liễn, Người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện… Ngoài sách báo, Quân Sử QLVNCH, tác giả am tường sách cổ như Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng, Tam Quốc Chí, Sử Ký Tư Mã Thiên (cả chuyện kiếm hiệp của Kim Dung) rồi từ nhân vật, mẩu chuyện xa xưa… dẫn chứng để suy ngẫm. Trước đây, tôi đã đọc những tác phẩm của cụ Mộng Bình Sơn (1923-2011) về Luận Cổ Suy Kim nhưng “suy kim” của cụ không liên quan đến cuộc chiến tại miền Nam VN và sau khi đất nước rơi vào tay Cộng Sản. Với tác giả Trần Bảo Anh thì “suy kim” với nỗi lòng của người Việt mất nước, tha hương… với uất hận, thương xót.

Trang bìa sau của tác phẩm ghi 4 câu thơ của Vũ Hoàng Chương, nhân đây gợi đến hình ảnh ẩn chưa trong những câu thơ với bài Phương Xa của nhà thơ Vũ Hoàng Chương cũng là tâm trạng của bao người mất nước, tha phương:

 

“Lũ chúng ta, lạc loài, dăm bảy đứa,

Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh,

Bể vô tận, sá gì phương hướng nữa,

Thuyền ơi thuyền! theo gió hãy lênh đênh.

Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ,

Một đôi người u uất nỗi chơ vơ.

Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,

Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ”.

 

Hơn hai thập niên về trước, tôi viết bài về các chiến hữu Biệt Kích nhảy toán trên đất Bắc, khi luận về hai chữ anh hùng, các cụ ngày xưa của ta thường lấy hình ảnh Kinh Kha bên Tàu mà trong lịch sử Việt Nam trải qua các thời kỳ Bắc thuộc, các bậc tiền nhân của ta với tấm lòng yêu nước đã cam đảm, dũng cảm hy sinh cho tiền đồ dân tộc nhưng bị lãng quên! Giai thoại kể rằng Kinh Kha vào thế kỷ thứ II trước công nguyên bên Tàu. Trước khi hành thích bạo chúa Tần Thủy Hoàng, “Thái tử Đan mở tiệc chiêu đãi, các cung nữ gảy đàn ca múa rộn ràng. Kinh Kha cao hứng, khen bàn tay của một cung nữ. Một lúc sau có người dâng lên Kinh Kha chiếc khay phủ khăn gấm, thì ra bên trong đựng hai bàn tay của người cung nữ kia”. Nếu là người có tấm lòng đạo đức thì không bao giờ chấp nhận hành động bạo tàn như vậy. Người đời chỉ ngưỡng mộ nhân vật đủ tài và đức.

Tôi tâm đắc với quan niệm của tác giả Trần Bảo Anh: “Khi bàn về Anh Hùng, thì phải xem cái cách họ suy nghĩ ra sao, từ khi chưa có gì, cư xử như thế nào lúc đắc thế và hành động những gì trong hoàn cảnh bị sa cơ” (sđd trang 106). Trong tác phẩm nầy, tác giả đã dẫn chứng tiêu biểu gương anh hùng của người lính VNCH không những dũng cảm trên chiến trường mà lúc sa cơ trong lao tù Cộng Sản vẫn giữ được khí phách…

 

Trong bài thơ Anh Hùng Vô Danh của Đằng Phương (GS Nguyễn Ngọc Huy) “Tặng những chiến sĩ vô danh tranh đấu cho tổ quốc” có những câu thơ với hình ảnh:

 

Họ là những anh hùng không tên tuổi

Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,

Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh

Nhưng can đảm và tận tình giúp nước…

… Trong chiến đấu, không nài muôn khó nhọc,

Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan,

Người thất cơ đành thịt nát xương tan

Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển…

… Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi

Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình

Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh

Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch…

 

Cảm ơn tác giả Trần Bảo Anh qua những trang sách nói lên tấm lòng của người bỏ xứ, tha hương với “những anh hùng không tên tuổi” đó để thế hệ hậu sinh hiểu rõ.

 

– Vương Trùng Dương

(Little Saigon, Feb 2023)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẩu đối thoại trên là của chàng thanh niên 27 tuổi là Ralph White với nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ trong những ngày cuối tháng Tư năm 1975 của miền Nam Việt Nam trong cuốn hồi ký Thoát Khỏi Sài Gòn (Getting Out of Saigon) của ông vừa được nhà xuất bản Simon and Schuster phát hành...
Hai mươi lăm truyện trong tập sách, ngoài những mảnh đời oái oăm của thế thái nhân tình trong đời sống xã hội hiện tại. Bạn và tôi còn đọc được những câu chuyện thú vị như: Vong Hồn Trên Sông, Đứa Con Phù Thủy, Đôi Mắt Tiền Kiếp, Hẹn Hò… Những câu chuyện có tính cách hoang đường, ma mị, xảy ra ở một quận lỵ heo hút nào đó của tỉnh Quảng Trị, nơi tác giả sinh ra và đã có một thời thơ ấu êm đềm...
Trust (tạm dịch là Niềm Tin) là cuốn sách thứ hai, đoạt giải Putlizer 2023, thuật lại những khúc mắc của chủ nghĩa tư bản thời hiện đại. Mở đầu bằng sự việc dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, sau những đợt bùng nổ và sụp đổ của lịch sử kinh tế từ quan điểm của từng cá nhân. Trust là một tác phẩm hiện đại táo bạo — trong suốt bốn màn, mỗi màn được đóng khung như một “cuốn sách” — tìm cách phá bỏ những quy ước chắc nịch làm nền tảng cho những huyền thoại về sức mạnh của nước Mỹ.
Tôi đưa quyển sách cho con trai, nói con đọc đi. Nó đọc một hai truyện gì đó, rồi nói, ngôn ngữ cũ mèm má ơi. Có vài chỗ khó hiểu nữa. Phải, ngôn ngữ “cũ mèm”, và có vài chỗ “khó hiểu” nữa, ngay cả với tôi. Con tôi thuộc thế hệ của Doraemon rồi Harry Potter. Tôi thuộc thế hệ của Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, của những truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc trên tạp chí Hương Quê một thời xa lơ xa lắc có lẽ đã trên dưới 60 năm. Cho nên tôi đã miệt mài “ôm” quyển sách trong nhiều ngày liên tục, rảnh được lúc nào là đọc, không theo thói quen con-cà-con-kê của mình...
Tôi chẳng nhớ là mình đã đi vào Thiền tự bao giờ, chỉ biết rằng những ý tưởng nhuốm màu Thiền đã nhật tích nguyệt lũy thấm dần vào tôi như những giọt nước rơi liên tục làm lõm phiến đá. // I cannot recall when I entered Zen Buddhism. I only know that, like drops of water persistently indenting a stone, Zen-like thoughts have been seeping into my mind day by day and month by month.
Tác giả là Ben Kiernan, sinh năm 1953, từng là Giáo sư “Sử học và Các Môn Học Quốc tế và Vùng” tại Đại học Yale nổi tiếng. Ông từng lập ra Chương trình về Diệt Chủng Cambodia và Chương Trình Nghiên Cứu Về Diệt Chủng. Sách của ông trước đây bàn về diệt chủng ở Cambodia cũng như trong những giai đoạn khác của lịch sử loài người
Chúng ta phần lớn từng học sử theo niên đại với nhiều chi tiết tên tuổi cần phải nhớ để đi thi, hay đọc sử nước nhà qua lăng kính của một người công dân gắn bó với quê hương và di sản tổ tiên để lại. Tác giả Goscha là một nhà khoa bảng chuyên về sử học từng được một giáo sư sử học quốc tế nổi tiếng người Việt (từng là giáo sư của Miền Nam Việt Nam) hướng dẫn, và từng huấn luyện và khảo cứu ở nhiều nước liên hệ đến Việt Nam (Pháp, Mỹ, Canada, Úc, Thái Lan). Được một chuyên gia tầm cỡ như thế trình bày những câu chuyện về đất nước, ông bà của của chính chúng ta qua lăng kính đặc biệt của một người ngoại cuộc giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn, và không kém phần thú vị về một đề tài tuy cũ nhưng vẫn còn nhiều điều mới mẻ.
Tuy nhiên, cuốn “Sống Với ‘Thán Dị Sao’ Của Ngài Thân Loan” còn có một phần rất đặc biệt mà chính phần này làm cho tôi thật sự thích thú. Đó là bản dịch tiếng Việt do HT Thích Như Điển thực hiện với đầy đủ 18 chương của cuốn “Thán Dị Sao” từ bản tiếng Nhật hiện đại của Giáo Sư Yamazaki Ryuumyou.
Tóm lại, A History of the Vietnamese là một cuốn sách rất công phu, chi tiết về lịch sử Việt Nam, chú trọng về văn hóa và xã hội, do một Giáo sư Sử học và Việt học người Mỹ từng huấn luyện nhiều sử gia Mỹ về chuyên ngành Việt Nam. Người quen đọc (hay học) sử tiếng Việt theo truyền thống chủ nghĩa dân tộc, hay người từng dùng chủ nghĩa dân tộc như một khí cụ chính trị có thể không đồng ý về một số kết luận, ví dụ về nguồn gốc tiếng Việt hiện đại hay về sự hiện hữu hay không của một "quốc hồn, quốc tính" Việt Nam. Tuy nhiên, đọc một cuốn sử dùng các sử liệu mới nhất và phân tích theo chiều hướng khoa học sử và chính trị hiện đại, người viết bài này cảm thấy biết ơn một nhà học giả ngoại quốc đã đem bao nhiêu thời giờ và tâm huyết để tạo nên một công trình đồ sộ như vậy, chưa từng có trong Anh văn. Ước mong một bản dịch tiếng Việt với đối chiếu các danh từ Anh-Việt và Hán sẽ xuất hiện một ngày nào đó không xa.
Trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975, các máy bay trực thăng Mỹ đã bay lên bầu trời Sai Gòn và tìm các đường đến các tàu ở Biển Đông (được những người bên ngoài Việt Nam gọi là Biển Hoa Nam). Chiếc máy bay mà người Việt gọi là "con chuồn chuồn", đã xé nát các gia đình nhưng cũng ràng buộc Mỹ và Việt Nam với nhau.
300x250_CTA-Vietnamese-NguoiViet
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.