Chân dung nhà văn Duy Nhân Xuyên qua tập truyện “Trọn Đời Yêu Thương”

13/02/202312:13:00(Xem: 1262)
Điểm sách

daothe

Ngoài kia tuyết đổ trắng xóa một trời, tôi ôm trong tay tập truyện “Trọn Đời Yêu Thương” của nhà văn Duy Nhân vừa gửi tặng, mà thấy ấm cả hồn mình.

 

“Trọn Đời Yêu Thương” là tuyển tập gồm có 36 truyện ngắn, cũng là tập truyện thứ tư của nhà văn Duy Nhân. Như trong lời tựa, Duy Nhân đã nhắc nhở “cây có gốc mới nở cành xanh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu” (*). Tư tưởng này đã quán xuyến xuyên suốt 36 truyện ngắn của tập truyện Trọn Đời Yêu Thương.

 

Nhà văn Duy Nhân đã từng đi qua hai cuộc chiến và những trải nghiệm sống dưới chế độ Chuyên Chính Vô Sản. Sự lựa chọn cuối cùng là anh phải thoát ly khỏi sự kềm kẹp của độc tài đảng trị, chấp nhận cuộc sống luu vong. Anh và gia đình đến Mỹ từ năm 1997, theo diện bảo lãnh, tuần tự ra đi, ODP-Orderly Departure.

 

Mở đầu là truyện ngắn “Việt Kiều Về Quê” nhà văn Duy Nhân đã không ngừng tố cáo chế độ Công Sản đã biến chất con người. Con người sanh ra và lớn lên dưới chế độ CSXHCN mất cả lương tri, đạo đức chỉ vì cơm áo gạo tiền. “Mẫu người tiêu biểu của đảng và nhà nước bây giờ là như vậy đó anh. Vừa ngu dốt vừa tham lam vừa hách dịch vừa hèn hạ nữa” đó là kết luận của tác giả Duy Nhân qua truyện ngắn “Trưởng Phòng Công An Phường”.

 

Những truyện còn lại “Phép Lạ” và ‘Giầy Dép Còn Có Số” là những trải nghiệm của nhà văn Duy Nhân sống dưới chế độ VNCH. Từ một chuyên viên ngân hàng, năm 1972, Mùa Hè Đỏ Lửa, anh trở thành sĩ quan Địa Phương Quân thuộc Tiểu khu Vĩnh Bình. Anh đã thoát chết cũng như anh xông pha dưới làn tên mũi đạn nhiều lần, may mắn anh vẫn sống cho đến ngày anh được biệt phái về làm việc ở Ngân Hàng Quốc Gia. “Khi cởi bộ đồ lính ra, tôi cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng tưởng chừng như mình có thể bay lên được“. Đó là cảm tưởng của nhà văn Duy Nhân về những năm tháng anh phuc vụ như một sĩ quan Địa Phương Quân.

 

Đến ngày 30-4-1975, cùng vận mệnh của tổ quốc, anh cũng như những bạn bè khăn gói đi vào trại cải tạo tập trung. Theo lời anh kể, anh may mắn hơn bạn bè, có người học tập cải tạo tập trung kéo dài đến 17 năm. Riêng anh và số nhỏ chỉ học tập cải tạo tập trung trong vòng 30 đến 36 tháng, dưới 3 năm. Sau khi được lệnh tha, anh rời khỏi trại học tập về nhà, và sau khi được xã chế, anh may mắn được cách mạng mời vào làm việc trong ủy ban Quản Lý Kinh Tế Tài Chánh cho công ty xuất nhập khẩu của Đảng. Sau một thời gian “tôi thôi làm cơ quan nhà nước, tôi đã làm ở 3 ngân hàng khác nhau trước khi được người em vợ bảo lãnh đi Mỹ vào tháng 7 năm 1997”. Và anh hân hoan kể lại cuộc sống của anh và gia đình tại Mỹ “hiện tại tôi được chính phủ trợ cấp hằng tháng, đủ chi dùng hằng ngày vì không có nhu cầu gì lớn lao. Đau yếu có nhà nước lo, phiếu mua thực phẩm cũng được cung cấp, sử dụng di chuyển cộng cộng miễn phí...” Đó là chưa kể anh và gia đình sống trong căn nhà theo chế độ Housing, anh chỉ trả 10% tiền thuê nhà. Như vậy đối với nhà văn Duy Nhân và những bạn bè cùng chí hướng với anh, nước Mỹ là một thiên đường hạ giới!

 

Dù sống trên thiên đường Mỹ, Việt Nam vẫn là quê hương yêu dấu của anh! Sau năm 2000, anh vẫn thường xuyên trở lại thăm quê hương Việt Nam và lưu lại cả tháng. Có năm anh về thăm nhà đến hai lần. Có lần anh và gia đinh đi du lịch bằng tàu thủy, anh và gia đình ghé thăm Hà Nội. Anh đi thăm và chụp hình, video những danh lam thắng cảnh như khu du lịch Hoàng Liên Sơn, Trung tâm Resort trên vịnh Nha Trang, bãi biển Sầm Sơn, Vịnh Hạ Long, ruộng bậc thang ở vùng cao Tây Bắc Việt Nam. Hoặc anh đi thăm những di tích lịch sử như Hang Pắc Bó ở Cao Bằng…

 

Nhà văn Duy Nhân vắt kiệt sức mình trên từng trang giấy khi viết về gia đình, dòng họ, viết về “Anh tôi”, “Ba tôi”, ”Ngoại tôi”, “Ông ngoại”... Mỗi người đều cho anh gương mẫu để sống.  Với truyện ”Ba tôi” anh nhắc lại câu ca dao ngạn ngữ: “Công cha như núi Thái Sơn-Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”... Nói về Mẹ, nhà văn Duy Nhân thổ lộ “Tôi không được ở với Mẹ ngay từ thuở nhỏ khi tôi mới 11 tuổi, thành thử tôi không có một kỷ niệm nào về mẹ. Đôi khi cố vận dụng ký ức thì cũng chỉ thấy hiện ra những hình ảnh rất mờ nhạt.  Những chuối ba hương, xôi nếp một, đường mía lau, và mật ngọt của đời đối với tôi cũng chỉ là mơ ước chập chờn trong giấc ngủ cô đơn hay lắng đọng  trong những phút giây tĩnh lặng nhất của lòng mình”... 

 

Đoạn tiếp theo là ký ức của nhà văn Duy Nhân trong giai đoạn anh hợp tác với chế độ cộng sản. Nhà văn Duy Nhân vẫn bị ám ảnh thường xuyên, về chuyên Hợp Tác Xã, những câu chuyện trao đổi giữa nhà văn và các nhân vật thuộc cấp cao của anh, như truyện “Ông Chủ Tịch”. Thật lý thú khi đọc truyện “Khẩu K54 Trong Hộc Bàn”. Đó là lúc nhà văn Duy Nhân bị cấp trên của anh hăm dọa vì tính tình làm việc của anh rất thẳng thắn. Do đó có đụng chạm đến quyền lợi tham nhũng của cấp trên. Ông P., người cấp trên của anh, không ngần ngại cho anh thấy khẩu súng K54 lúc nào cũng nằm chờ sẵn trong hộc bàn của ông ta như một chỉ dấu đe dọa nguy hiểm đến tánh mạng của anh. Sự thô bỉ bạo ngược của xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa đến thế là cùng.

Những năm tháng trong lao tù cải tạo, mặc dầu dưới sức ép thường trực của quản giáo, nhà văn Duy Nhân vẫn tiếp làm thơ nhớ về người vợ, lên án chế độ XHCN. Và mỉa mai thay anh viết bài thơ có tựa đề “Cám Ơn Ngục Tù”.

 

Phần nhiều những truyện còn lại, tác giả Duy Nhân viết về “Hạnh Phúc Của Tuổi Già”, niềm vui  “Giữ Cháu Ngoại”, hoăc sự thành đạt của các con cháu lớn lên trong nền văn hóa tự do của nước Mỹ. Tác giả Duy Nhân cuối cùng không quên đề cập đến dịch bệnh Covid 19, một tai ương cũng là những thử thách khả năng chống dịch bệnh của nhân loại.

 

Trong loạt bài còn lại có một bài ký, tựa đề “Người Không Nhận Tội”. Chính bài viết này đã làm nên tên tuổi nhà văn Duy Nhân. Vốn dĩ là một sinh viên tốt nghiệp khóa Chính Trị Kinh Doanh, “Người Không Nhận Tội”có phong thái một nhà trí thức trẻ, năng động, “giàu tiềm năng và nghị lực”. “Người Không Nhận Tội” có tên rất lạ và dễ nhớ: Kha Tư Giáo. Anh cũng là người bạn tù cải tạo tập trung của nhà văn Duy Nhân.

 

Theo chính sách cải tạo tập trung, ngoài giờ lao động khổ nhọc, các cải tạo viên còn phải học 10 bài chính trị. Sau mỗi bài học, là những buổi hội thảo trong tổ, trong đội. Mỗi học viên cải tạo phải viết bài thu hoạch những gì mà họ tiếp thu được sau bài giảng của giáo viên. Các học viên “phải liên hệ bản thân, xác định mình là người có tội với nhân dân, với cách mạng”. Chống lại những yêu cầu trên, học viên Kha Tư Giáo cho rằng anh và các bạn không ai là người có tội. “Các chiến sĩ VNCH cầm súng chống lại bộ đội Bắc Việt và quân nằm vùng là để tự vệ mà không hề chống lại nhân dân, đồng bào ruột thịt trong Nam cũng như ngoài Bắc. Lập trường của anh Giáo không đáp ứng yêu cầu của Việt Cộng. Đó là tấn thảm kịch của anh”. Kha Tư Giáo phải viết bài kiểm điểm liên tục. Càng kiểm điểm anh càng cảm thấy mình vô tội. Theo nhà văn Duy Nhân, “bài kiểm điểm của anh Giáo lúc đầu còn dài về sau chỉ còn có 4 chữ: TÔI KHÔNG CÓ TỘI”. Anh kiên quyết giữ vững lập trường ngay khi anh đối diện với các giáo viên cải tạo cấp cao. Lập luận cơ bản của anh: “Nên nhớ, các anh mới là người âm mưu cùng thực dân Pháp, chia đôi đất nước bằng hội nghị Geneva năm 1954. Chúng tôi không hề ký vào bản hiệp định đó. Đồng minh của chúng tôi không phải chỉ có Mỹ mà có cả Đại Hàn, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi, và tất cả các quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Các anh mới là tay sai Liên Xô và Trung Cộng. Chủ nghĩa cộng sản chủ trương bành trướng, xâm lược, nhuộm đỏ toàn thế giới chớ không riêng gì Việt Nam”. Dĩ nhiên, những chống đối kiên cường này ngay cả với cán bộ quản giáo cấp cao, đã đưa anh Kha Tư Giáo và các cán bộ quản giáo đến những ngã rẽ vô cùng tai hại cho anh Kha Tư Giáo. Anh Kha Tư Giáo đã phải chấp nhận một chế độ quản giáo vô cùng khắc nghiệt nếu không muốn là anh bị trừng phạt đến tận cùng. Theo lời kể của nhà văn Duy Nhân, vấn đề khốn nạn này theo chân anh Kha Tư Giáo từ trại học tập này đến trại học tập khác. Có sự kỳ ngộ ở đây, anh Kha Tư Giáo luôn ở cùng trại, cùng lán với nhà văn Duy Nhân. Do đó nhà văn Duy Nhân thấu hiểu được thân phận của anh Giáo trong lao tù cải tạo. Đôi khi trong đêm tối anh trao đổi với anh Giáo, anh chia sẻ tận cùng với anh Giáo. Với khí phách của một người trí thức, anh Giáo luôn giữ vững lập trường của một Người Không Nhận Tội.

 

Từ một thanh niên khỏe mạnh cao hơn một thước bảy, chỉ trong vòng mấy tháng  anh chỉ còn là bộ xương với đôi mắt thật tinh anh, sau những hồi tuyệt thực đấu tranh không bao giờ nhận mình là người có tội.

 

Rồi cái gì sẽ đến, đã đến: ngày 20 tháng 6 năm 1977 theo nhà văn Duy Nhân ”Việt Cộng cho di chuyển một số tù nhân từ Phú Quốc về Long Giao, Long Khánh. Anh Giáo di chuyển đợt đầu, tôi thì di chuyển đợt kế tiếp. Trong lúc di chuyển anh Giáo bị còng tay, lúc nào cũng có bảo vệ ôm súng canh chừng. Ngay khi về tới Long Giao, tôi vội đi tìm anh Giáo. Khi gặp anh thì anh đang hấp hối. Tôi nắm tay anh thì bàn tay anh lạnh ngắt. Lời nói cuối cùng anh nhắn lại với tôi là khi nào được về thì nói tất cả sự thật cho gia đình anh biết. Tôi hỏi địa chỉ ở đâu thì anh thều thào trong hơi thở rất yếu. Hình như anh thốt ra hai chữ Huyền Trân”. Cũng theo nhà văn Duy Nhân, chính anh đã nhận ra “nấm mộ của anh Kha Tư Giáo trong một dịp tình cờ trong lúc anh đi lao động. Nấm mồ của Giáo phủ đầy cỏ dại ở một góc sân banh hoang vắng. Trên mộ có một bảng gỗ nhỏ có đề tên anh, nét chữ nhạt nhòa”.

 

Tác giả Duy Nhân được lệnh tha cuối năm 1977, mặc dầu phải đương đầu với bao nhiêu khó khăn sau khi được xuất trại, anh vẫn thường xuyên để ý tìm địa chỉ nhà của anh Kha Tư Giáo. Anh đã đi lùng khắp Saigon, Chợ Lớn, Bà Chiểu, Phú Nhuận tìm cho ra con đường Huyền Trân để tìm đến gia đình anh Kha Tư Giáo. Trong suốt hai năm ở Saigon, anh vẫn không tìm ra được gia đình anh Kha Tư Giáo trước khi anh và gia đình được người em vợ bảo lãnh sang định cư tại Mỹ vào cuối năm 1997. Từ ngày sang Mỹ, anh “vẫn cố gắng dò hỏi trong số bạn bè mà tôi liên lạc được xem có ai biết gia đình họ Kha không? Một lần nữa tôi không có tin vui”. Cuối cùng nhà văn Duy Nhân đành phải chọn giải pháp, anh viết lại truyện anh Kha Tư Giáo và cho nó một tựa đề “Người Không Nhận Tội”. Vào cuối tháng 12-2001 anh gửi bài viết này đăng ở Việt Báo Online ở Cali trong hạng mục “Viết Về Nước Mỹ”, một chapter  có nhiều độc giả cũng như nhiều người tích cực tham gia rộng khắp toàn cầu, với hy vọng nhỏ nhoi là gia đình Kha Tư Giáo sẽ đọc được. Quả thật vậy, ngày 23-1-2002 chủ nhiệm Việt Báo Online tải một điện thư của gia đình anh Kha Tư Giáo từ Austin, Texas, gửi đến cho anh. Đó là điện thư của anh KTC, em trai của Kha Tư Giáo. Và chiều chủ nhật 27-1-2002, nhà văn Duy Nhân cũng nhận được điện thoại từ một phụ nữ ở Texas tên là Kha Huyền Trân, người em gái của anh Giáo. Nhờ đó mà nhà văn Duy Nhân mới ngộ ra rằng Huyền Trân là tên của người em gái của Kha Tư Giáo chứ không phải tên của đường Công Chúa Huyền Trân.

 

Thế là giấc mộng của nhà văn Duy Nhân đã thành hiện thực. Nỗi ưu tư của anh đã kết thúc tốt đẹp và mỹ mãn. Truyện “Người Không Nhận Tôi” được phổ biến trong các cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản rộng khắp toàn cầu. Từ đó tên tuổi của nhà văn Duy Nhân được gắn liền với truyện“Người Không Nhận Tội”.

 

Trong khi tôi viết bài nhận định về tác phẩm lớn của anh “Trọn Đời Yêu Thương”, nhà văn Duy Nhân chí 80, anh vẫn ở Uptown-Chicago. Anh đang hưởng già, tiếp tục bồi dưỡng những sở thích của anh trong sự nghiệp nhiếp ảnh, viết văn, làm thơ, viết báo (Viết cho bán nguyệt san Việt Báo ở Uptown Chicago) và theo dõi chăm sóc sinh hoạt cộng đồng người Việt tại vùng Uptown Chicago. Anh đang sống một cuộc sống của một nhà văn tỵ nạn cộng sản với đầy đủ ý nghĩa nhất.

 

– Đào Như

12-2-2023

 

(*) Những chữ viết nghiêng và trong vòng kép được trích từ tập truyện Trọn Đời Yêu Thương.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẩu đối thoại trên là của chàng thanh niên 27 tuổi là Ralph White với nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ trong những ngày cuối tháng Tư năm 1975 của miền Nam Việt Nam trong cuốn hồi ký Thoát Khỏi Sài Gòn (Getting Out of Saigon) của ông vừa được nhà xuất bản Simon and Schuster phát hành...
Hai mươi lăm truyện trong tập sách, ngoài những mảnh đời oái oăm của thế thái nhân tình trong đời sống xã hội hiện tại. Bạn và tôi còn đọc được những câu chuyện thú vị như: Vong Hồn Trên Sông, Đứa Con Phù Thủy, Đôi Mắt Tiền Kiếp, Hẹn Hò… Những câu chuyện có tính cách hoang đường, ma mị, xảy ra ở một quận lỵ heo hút nào đó của tỉnh Quảng Trị, nơi tác giả sinh ra và đã có một thời thơ ấu êm đềm...
Trust (tạm dịch là Niềm Tin) là cuốn sách thứ hai, đoạt giải Putlizer 2023, thuật lại những khúc mắc của chủ nghĩa tư bản thời hiện đại. Mở đầu bằng sự việc dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, sau những đợt bùng nổ và sụp đổ của lịch sử kinh tế từ quan điểm của từng cá nhân. Trust là một tác phẩm hiện đại táo bạo — trong suốt bốn màn, mỗi màn được đóng khung như một “cuốn sách” — tìm cách phá bỏ những quy ước chắc nịch làm nền tảng cho những huyền thoại về sức mạnh của nước Mỹ.
Tôi đưa quyển sách cho con trai, nói con đọc đi. Nó đọc một hai truyện gì đó, rồi nói, ngôn ngữ cũ mèm má ơi. Có vài chỗ khó hiểu nữa. Phải, ngôn ngữ “cũ mèm”, và có vài chỗ “khó hiểu” nữa, ngay cả với tôi. Con tôi thuộc thế hệ của Doraemon rồi Harry Potter. Tôi thuộc thế hệ của Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, của những truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc trên tạp chí Hương Quê một thời xa lơ xa lắc có lẽ đã trên dưới 60 năm. Cho nên tôi đã miệt mài “ôm” quyển sách trong nhiều ngày liên tục, rảnh được lúc nào là đọc, không theo thói quen con-cà-con-kê của mình...
Tôi chẳng nhớ là mình đã đi vào Thiền tự bao giờ, chỉ biết rằng những ý tưởng nhuốm màu Thiền đã nhật tích nguyệt lũy thấm dần vào tôi như những giọt nước rơi liên tục làm lõm phiến đá. // I cannot recall when I entered Zen Buddhism. I only know that, like drops of water persistently indenting a stone, Zen-like thoughts have been seeping into my mind day by day and month by month.
Tác giả là Ben Kiernan, sinh năm 1953, từng là Giáo sư “Sử học và Các Môn Học Quốc tế và Vùng” tại Đại học Yale nổi tiếng. Ông từng lập ra Chương trình về Diệt Chủng Cambodia và Chương Trình Nghiên Cứu Về Diệt Chủng. Sách của ông trước đây bàn về diệt chủng ở Cambodia cũng như trong những giai đoạn khác của lịch sử loài người
Chúng ta phần lớn từng học sử theo niên đại với nhiều chi tiết tên tuổi cần phải nhớ để đi thi, hay đọc sử nước nhà qua lăng kính của một người công dân gắn bó với quê hương và di sản tổ tiên để lại. Tác giả Goscha là một nhà khoa bảng chuyên về sử học từng được một giáo sư sử học quốc tế nổi tiếng người Việt (từng là giáo sư của Miền Nam Việt Nam) hướng dẫn, và từng huấn luyện và khảo cứu ở nhiều nước liên hệ đến Việt Nam (Pháp, Mỹ, Canada, Úc, Thái Lan). Được một chuyên gia tầm cỡ như thế trình bày những câu chuyện về đất nước, ông bà của của chính chúng ta qua lăng kính đặc biệt của một người ngoại cuộc giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn, và không kém phần thú vị về một đề tài tuy cũ nhưng vẫn còn nhiều điều mới mẻ.
Tuy nhiên, cuốn “Sống Với ‘Thán Dị Sao’ Của Ngài Thân Loan” còn có một phần rất đặc biệt mà chính phần này làm cho tôi thật sự thích thú. Đó là bản dịch tiếng Việt do HT Thích Như Điển thực hiện với đầy đủ 18 chương của cuốn “Thán Dị Sao” từ bản tiếng Nhật hiện đại của Giáo Sư Yamazaki Ryuumyou.
Tóm lại, A History of the Vietnamese là một cuốn sách rất công phu, chi tiết về lịch sử Việt Nam, chú trọng về văn hóa và xã hội, do một Giáo sư Sử học và Việt học người Mỹ từng huấn luyện nhiều sử gia Mỹ về chuyên ngành Việt Nam. Người quen đọc (hay học) sử tiếng Việt theo truyền thống chủ nghĩa dân tộc, hay người từng dùng chủ nghĩa dân tộc như một khí cụ chính trị có thể không đồng ý về một số kết luận, ví dụ về nguồn gốc tiếng Việt hiện đại hay về sự hiện hữu hay không của một "quốc hồn, quốc tính" Việt Nam. Tuy nhiên, đọc một cuốn sử dùng các sử liệu mới nhất và phân tích theo chiều hướng khoa học sử và chính trị hiện đại, người viết bài này cảm thấy biết ơn một nhà học giả ngoại quốc đã đem bao nhiêu thời giờ và tâm huyết để tạo nên một công trình đồ sộ như vậy, chưa từng có trong Anh văn. Ước mong một bản dịch tiếng Việt với đối chiếu các danh từ Anh-Việt và Hán sẽ xuất hiện một ngày nào đó không xa.
Trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975, các máy bay trực thăng Mỹ đã bay lên bầu trời Sai Gòn và tìm các đường đến các tàu ở Biển Đông (được những người bên ngoài Việt Nam gọi là Biển Hoa Nam). Chiếc máy bay mà người Việt gọi là "con chuồn chuồn", đã xé nát các gia đình nhưng cũng ràng buộc Mỹ và Việt Nam với nhau.
300x250_CTA-Vietnamese-NguoiViet
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.