Hôm nay,  

Tác phẩm Thérèse Desqueyroux của François Mauriac qua bản dịch của T.Vấn

01/02/202315:36:00(Xem: 1518)
Điểm sách

vtd 0

 

Trong hai thập niên ở miền Nam Việt Nam, nhiều dịch giả với các tác phẩm dịch thuật về văn chương Tây Phương, nhất là Pháp, khi đoạt giải Nobel Văn Chương, các tạp chí văn học được giới thiệu tác giả, tác phẩm với độc giả được phổ biến rộng rãi.

 

Về dịch thuật tác phẩm văn chương điển hình như: Nguyễn Hiến Lê, Trương Bảo Sơn, Vũ Đình Lưu (Cô Liêu), Bùi Giáng, Trần Thiện Đạo, Phùng Khánh & Phùng Thăng, Tam Ích, Bửu Ý, Ngọc Thứ Lang, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Hữu Hiệu, Đỗ Khánh Hoan, Mặc Đỗ, Trần Phong Giao, Hoài Khanh, Hoàng Hải Thủy (phóng tác)…

 

Theo nhà văn Võ Phiến, phần sách dịch chiếm đến 60% số đầu sách (tên sách, tựa đề tác phẩm dịch thuật) được xuất bản tại miền Nam đến năm 1973, nó đã lên đến 80%. Và theo Trần Trọng Đăng Đàn, số dịch phẩm tại miền Nam VN trong 20 năm đó có thể được chia ra thành: Pháp với 499 cuốn, Đài Loan và Hương Cảng với 358 cuốn, Mỹ với 273 cuốn, Nga với 120 cuốn, Anh với 97 cuốn, Nhật với 71 cuốn, Ý với 58 cuốn, Đức với 57 cuốn… Vì vậy độc giả có cơ hội am hiểu về văn chương hải ngoại trong hoàn cảnh chiến tranh.

 

Tháng 11 năm 2022, tôi viết bài Tổng Quan Về Sách Dịch Văn Học Tây Âu Ở Miền Nam Việt Nam. Trong Mục A.- Nobel Văn Chương Tây Âu & Tác Phẩm Dịch Thuật đã ghi: Năm 1952: Nhà văn Pháp François Mauriac (1885-1970). Tác phẩm Thérèse Desqueyroux  (Người Vợ Cô Đơn) do Mặc Đỗ dịch qua bản tiếng Pháp năm 1956, giới thiệu với độc giả sau khi được giải Nobel Văn Chương…

 

Nhà văn François Mauriac từ thi phẩm đầu tay Les Mains Jointes (1909) đến tập truyện cuối cùng Trois Récits trước khi qua đời, khoảng ba mươi tác phẩm của ông chỉ có vài bản dịch (ít hơn Anatole France, Adré Gide, Albert Camus, Jean Paul Sartre, François Sagan…) nhưng tác phẩm Thérèse Desqueyroux qua bản dịch của Mặc Đỗ đã gây tiếng vang vào giữa thập niên 50.

 

Bài viết Tổng Quan Về Sách Dịch Văn Học… được T.Vấn phổ biến trên website của anh: T.Vấn & Bạn Hữu. Khi anh em trò chuyện với nhau, Trương Vấn cho biết tác phẩm Thérèse Desqueyroux là “sách gối đầu giường” của anh. Khi hiền thê của anh Nguyễn Thị Kim Oanh qua đời (ngày 24 tháng 1 năm 2022), với tâm sự của anh đã trang trải qua các bài viết rất xúc động, hình ảnh Thérèse Desqueyroux của François Mauriac, mà ngày xưa cụ Nguyễn Gia Thiều trong bài thơ Khóc Thị Bằng “Đập mảnh gương xưa tìm lấy bóng. Xếp manh áo cũ để dành hơi”, hay “Đập cổ kính ra tìm hình bóng cũ. Xếp tàn y lại để dành hơi” của Vua Tự Đức trong bài thơ Khóc Bằng Phi. Và có lẽ với T.Vấn, tác phẩm nầy là “mảnh gương xưa, hình bóng cũ”.

 

Tâm tình của T.Vấn với người bạn đời Chia Tay (Fare Thee Well):

 

Cuối cùng, em đã bỏ tôi mà đi.

Một chuyến đi, em và tôi đều đau đớn biết rằng, sẽ không có ngày trở lại.

Mãi mãi không có ngày trở lại...

Mãi đến khi em thở hắt ra một lần cuối cùng, tôi mới giật mình tự hỏi, liệu mình có sống sót nổi để vượt qua cuộc chia ly buốt lòng này hay không...

Tim tôi nhói đau khi viết những dòng này, cho em, cho tôi, cho những đứa con tuyệt vời của chúng ta, trong căn nhà hai đứa mình đã làm lụng vất vả, chắt chiu dành dụm, để an hưởng cuối đời. Căn nhà mà mỗi góc phòng, mỗi lối đi, mỗi vật dụng, mỗi trang trí đều có bàn tay em chạm vào, đều có con mắt tinh tường thẩm mỹ của em chiếu rọi vào và biến chúng thành tổ ấm lý tưởng cho gia đình, cho các con, cho chúng ta.

Giờ thì chỉ còn mình tôi ngồi ngó mông chung quanh trong nỗi quạnh quẽ ngay trong tổ ấm của chúng ta, mắt cứ mờ dần đi vì mưa bụi. Mưa bụi hay nước mắt? Tuổi già nước mắt như sương. Là mưa bụi, là sương mù, hay nước mắt thì có hề gì, phải không em?..

Chỉ đến giờ phút này, tôi mới nhận ra mình thương em nhiều hơn là tôi tưởng. Cần em nhiều hơn tôi tưởng.

Nhưng, như mình đã bảo với nhau, phải vui vẻ chấp nhận.

Oanh ơi, anh đang vui vẻ chấp nhận!

Vậy thì, Oanh nhé!

Fare thee well! and if for ever,

Still for ever, fare thee well

(Lord Byron)

Thôi chia tay, và nếu là mãi mãi

Xin một lần được mãi mãi chia tay!”

 

Hình ảnh Thérèse Desqueyroux khác với hình ảnh người bạn đời Kim Oanh sau khi T.Vấn đi tù về nhưng trước năm 1975, khi còn trong quân ngũ, thời lang bạc có bóng dáng nào đó (?) để niên đệ chia sẻ tác phẩm nầy của François Mauriac, tôn trọng sự riêng tư nên tôi không hỏi khi chia sẻ qua email. Nhưng Thérèse Desqueyroux là “nhân vật bất hạnh” trong xã hội của phái nữ ở Pháp vào thời điểm đầu thập niên thế kỷ XX. Theo lời T.Vấn “Trong suốt thời gian thực hiện bản chuyển ngữ, tôi đã sống lại được nỗi đam mê của thời trai trẻ, đã đắm chìm trong những trang sách với cảm giác hạnh phúc rất hiếm hoi ở một người (già) như tôi”.

 

Tác phẩm Thérèse Desqueyroux của François Mauriac, T.Vấn dịch với tựa đề theo nguyên tác dựa trên bản Anh ngữ của Raymond N. MacKenzie, NXB Sheed & Ward 2005. Có đối chiếu với bản tiếng Pháp. Phổ biến vào đầu tháng 12, 2022 trên trang web của anh: Tủ Sách T.Vấn & Bạn Hữu.

 

Cũng trong bài Tổng Quan… Mục B.- B.- Dịch Giả Miền Nam VN Với Các Tác Phẩm Văn Chương Tây Phương, vài nhà giáo, nhà văn chỉ dịch một, hai truyện dịch (tác phẩm dịch thuật) có giá trị được gọi là dịch giả.

 

Giữa tôi & T.Vấn, đồng môn, niên trưởng, niên đệ (Khóa Nguyễn Trãi I & Khóa Nguyễn Trãi III ở quân trường ĐH.CTCT Đà Lạt) và cũng là bạn văn. Với tình nghĩa nầy, trang web của T.Vấn đã dành cho tôi “mảnh đất”, đôi khi muốn “đáp lễ” nhưng ngại cho rằng “áo thụng vái nhau”.

 

Trong bài viết Khái Quát Tuần Báo Phong Hóa, Ngày Nay & Tự Lực Văn Đoàn vào đầu năm 2023, khi đọc hai tờ báo nầy vào thập niên 30 của thế kỷ XX, bạn thân và 3 anh em trong gia đình Nguyễn Tường (Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam) luôn đề cập, giới thiệu với nhau khi có sáng tác mới, cũng là lẽ thường tình.

 

Truyện dịch Thérèse Desqueyroux của T.Vấn gồm 13 Chương, dày 342 trang (Bìa ghi T.Vấn chuyển ngữ). Không in sách, chỉ phổ biến online.

 

Lời Tựa của T.Vấn: Tại Sao Tôi Dịch Thérèse Desqueyroux?, từ trang 7 đến trang 15.

Lời Tựa của Joseph Cunneen - (bản dịch của T.Vấn), từ trang 16 đến trang 25.

Giới Thiệu Tác Phẩm của Raymond N. Mackenzie (bản dịch của T.Vấn), từ trang 26 đến trang 69. Bài của Dịch giả Raymond N. Mackenzie (từ Pháp ngữ sang Anh ngữ) có thêm phần chú thích.

 

(Trong quyển Người Vợ Cô Đơn của Mặc Đỗ, có bài giới thiệu của Trương Sơn).

Phần cuối của truyện dịch (bản của T.Vấn)  có lời Bạt của Lê Hữu: Thérèse, mãi mãi tuổi thanh xuân, từ trang 321... và Nguyễn Thiên Nga: Đọc & Nghĩ, từ trang 327…

 

Các trang cuối giới thiệu các tác phẩm sáng tác & dịch thuật của T.Vấn. Trang 336, tác phẩm Viết Về Bạn Hữu. Tập hợp những bài viết về những người hoạt động trong các lãnh vực nghệ thuật - thơ, văn, nhạc, họa, hình mà tác giả đã có cơ duyên gặp gỡ, quen biết, hoặc chỉ giao lưu qua trung gian các loại hình nghệ thuật vừa kể. Hầu hết những tác giả được “viết” đến trong quyển sách đều tụ họp ở một sân chơi chung, đó là trang mạng văn học T.Vấn & Bạn Hữu, trang  338, 339.

 

Tác phẩm “Tiếng Vọng Từ Chernobyl” của nhà văn đoạt giải Nobel Văn Chương năm 2015 Svetlana Alexievich là tác phẩm văn chương đầu tiên lấy chủ đề chính từ vụ nổ nhà máy nguyên tử Chernobyl. Tác phẩm là tổng hợp những câu chuyện kể của từng con người, trực tiếp hoặc gián tiếp là nạn nhân của vụ nổ, xa hơn nữa, là nạn nhân của chính cách đối phó với thảm hoạ của nhà cầm quyền, trang 340.

 

Tác phẩm Lời Tình Buồn Gởi New Orleans và tác phẩm (tùy bút) Quê Nhà Quê Người của nhà văn T.Vấn được giới thiệu tổng quát thể hiện niềm đam mê của anh với văn chương ở hải ngoại.

 

Nội Dung của Thérèse Desqueyroux:

 

Những dòng đầu ở Chương I: “Gã luật sư mở rộng cánh cửa. Đứng giữa dãy hành lang tối tăm của tòa án, Thérèse Desqueyroux cảm thấy sương mù như bám đầy mặt. Nàng hít vào thật sâu. Nàng ngần ngại chưa vội bước ra, vì không biết ai là người đang chờ đợi mình bên ngoài. Vừa lúc, dưới bóng cây tiêu huyền xuất hiện một người đàn ông với cổ áo bẻ cao. Nàng nhận ra đó là cha mình. Gã luật sư nói to: “Không đủ chứng cớ”, rồi quay qua bảo Thérèse:

 

“Bà ra được rồi đấy. Chẳng có ai ngoài đây cả.”

 

Dòng cuối ở Chương XIII: Thérèse mỉm cười với chính mình, giống hệt như một người đàn bà hạnh phúc vẫn làm. Nàng chăm chú tô lại đôi môi, dặm lại đôi má phấn; Nàng xuống đường, bước những bước đi vô định giữa hè phố Paris”. (Bản dịch của T.Vấn).

 

Về nội dung tác với câu chuyện lấy bối cảnh ở Landes, một vùng dân cư thưa thớt ở tây nam nước Pháp, được bao phủ rộng khắp bởi những cánh rừng thông. Khởi đầu với vụ kiện đang bị bác bỏ. Người tường thuật, bị cáo Thérèse có địa vị, bị xét xử tội đầu độc chồng mình Bernard bằng cách cho ông uống Fowler’s Solution quá liều, thứ thuốc chứa thạch tín. Tuy có những bằng chứng vững vàng chống lại mình, bao gồm cả những toa thuốc cô giả mạo, vụ kiện bị ngừng lại; gia đình kết thúc các địa vị xã hội để tránh tai tiếng và bản thân Bernard cũng làm chứng cho lời biện hộ của cô. Trên đường từ tòa án về nhà, Thérèse nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng hiểu được điều gì đã khiến cô tiếp tục đầu độc chồng mình sau khi cô quan sát người chồng tình cờ uống thuốc quá liều…

 

Trong phần Bạt của Lê Hữu, tóm lược: “Tác phẩm nầy không phải là câu chuyện tình lâm ly, nhiều tình tiết gay cấn và hấp dẫn theo cách hiểu thông thường. Những trang tiểu thuyết có bối cảnh và khí hậu của những cánh rừng thông trầm mặc, phản ánh thế giới nội tâm của Thérèse và cuộc hôn nhân “môn đăng hộ đối”, thực chất là cuộc hôn phối của tài sản, gượng ép và buồn tẻ đến ngột ngạt.

 

Cuộc sống vô vị, không tình yêu, không lạc thú ái ân bên cạnh người chồng địa chủ tầm thường nhạt nhẽo, khác biệt tâm tánh và chẳng bao giờ hiểu được vợ mình. Trên cả nỗi “cô đơn”, ở Thérèse là nỗi trầm uất không tìm ra lối thoát, không cách nào giải tỏa. Khi cánh cửa hôn nhân đóng lại sau lưng, như kẻ mộng du, nàng tự bước vào chiếc lồng đã mở sẵn. Thérèse tự nguyện là “tù nhân của chính mình”, không đợi cho đến lúc người chồng tạo sự cô lập và giam hãm nàng vào “nhà tù” của ông như một cách trừng phạt tội lỗi nàng… Cũng giống như nhân vật Thérèse trong chương cuối của tác phẩm, nhân vật Jean của ngày xưa ấy, cũng tìm được chút hạnh phúc ở cuối đường”.

 

Raymond N. Mackenzie Giới Thiệu Tác Phẩm:

 

“… Câu chuyện về nhân vật Thérèse có gốc rễ sâu xa trong chính cuộc đời của Mauriac. Vào những năm 1905-1906, ở Bordeaux, báo chí hàng ngày ra rả về vụ tai tiếng liên quan đến Madame Henriette-Blanche Canaby. Bà này bị kết tội là đã mưu toan đầu độc chồng và giả mạo các toa thuốc kê khai những chất độc hại - Aconite (phụ tử), digitalis (mao địa hoàng), và Chloroform (chất gây mê). Chồng bà vốn đang được điều trị bằng một loại thuốc được bác sĩ kê toa hợp lệ, gọi là phương pháp điều trị Fowler – một loại thuốc nước tổng hợp, trong đó có một lượng nhỏ chất thạch tín (arsenic). Đột nhiên, ông chồng trở bệnh nặng hơn. Dần dà, các bác sĩ chẩn quyết là ông ta bị đầu độc bằng chất thạch tín. Nhưng bệnh nhân từ chối khẩu cung buộc tội vợ mình. Mặt khác, người ta không tìm thấy những loại chất độc khác trong cơ thể bệnh nhân.

 

Tất nhiên, toàn bộ những tình tiết này được Mauriac sử dụng trong câu chuyện nói về vụ đầu độc Bernard của tiểu thuyết Thérèse Desqueyroux. Madame Canaby được tha bổng tội danh âm mưu đầu độc chồng, nhưng bị án tù 15 tháng vì tội giả mạo công chứng thư. 20 năm sau, khi Mauriac sáng tác quyển tiểu thuyết của mình, rất nhiều những chi tiết - ngoại trừ việc bà Canaby bị phạt tù - đã tìm được cách có mặt trong quyển sách của Mauriac. Nhà văn đã chính thức xác Trong số những căn rễ của tiểu thuyết Thérèse Desqueyroux, chắc chắn có một hình ảnh - lúc tôi 18 tuổi, nhìn thấy trong một buổi xét xử ở tòa án - của một phụ nữ gầy ốm bị kết tội đầu độc chồng, đứng giữa hai viên cảnh sát. Tôi còn nhớ được những lời khai của các nhân chứng và đã sử dụng chi tiết về toa thuốc bị ngụy tạo mà bị cáo đã dùng để có được những độc chất cần thiết. Nhưng chỉ  đến chỗ đó thôi. Tôi đã ngừng việc vay mượn từ đời thực ngay sau chi tiết này. Từ đó, dựa vào những gì mà thực tại chắp cánh cho trí tưởng tượng, tôi đã tạo nên một nhân vật hoàn toàn khác hẳn, phức tạp hơn nhiều. Động cơ phạm tội của bị cáo, theo những khuôn mẫu thông thường – nàng đã yêu một người đàn ông khác hơn chồng mình. Với nhân vật của tôi, hoàn toàn không phải như vậy. Bi kịch của Thérèse nằm ở chỗ chính nàng không biết điều gì đã khiến cho nàng thực hiện hành vi phạm tội.

 

Hiển nhiên, quyển tiểu thuyết của Mariac không đơn giản chỉ bê nguyên si hình mẫu Canaby rồi biến hóa cho phức tạp hơn: một số những tính cách cơ bản của Thérèse có thể xem như là hình thức tự họa (self-portrait) của tác giả. Lời Tựa của tác phẩm cho thấy tác giả biết rất rõ nhân vật của mình và đoạn trích từ Baudelaire mà tác giả dùng làm “đề từ” (epigraph) cũng hàm ý kêu gọi một sự thông cảm cho “sinh vật” (creature) mà chúng ta sắp sửa gặp. Mauriac thường nhắc đến mối quan hệ riêng của mình với  Thérèse, đáng kể nhất là trong một bài báo ông viết năm 1935…”

 

(Dịch giả Raymond N. Mackenzie, giáo sư tại University of St. Thomas ở thành phố St. Paul, tiểu bang Minnesota. MacKenzie đã chuyển ngữ 3 tác phẩm của F. Mauriac: Thérèse Desqueyroux, God and Mammmon và What Was Lost).

 

Trong phần Lời Tựa của T. Vấn:

 

“Mặc dù Mauriac không phải là người tranh đấu cho nữ quyền, nhưng cái cách ông tự đồng hóa mình với nhân vật chính Thérèse, một phụ nữ bị xã hội chung quanh điều khiển chặt chẽ, bị gia đình kiểm soát cho đến trọn đời và ở cả hai nơi ấy nàng không thể nào tìm ra được một ai để chia sẻ gánh nặng với mình. Mẹ chết khi nàng còn đỏ hỏn trong nôi; cha nàng bỏ bê con để có thể dành trọn thời gian cho những tham vọng vươn lên trong hoạt động chính trị; người cô Clara của nàng, có thể coi là một khuôn mặt người mẹ, rất tận tụy với đứa cháu mồ côi nhưng lại bị mất thính giác hoàn toàn. Thế giới chung quanh của Thérèse tuy ngột ngạt, khó thở nhưng những mối xúc cảm của cô vẫn bị ảnh hưởng sâu sắc bởi mùi thơm của cây thông  và phong cảnh đẫm ánh mặt trời  của vùng Landes…

 

Không có những câu trả lời chính xác. Thérèse đã phạm một tội ác và cô phải trải qua một tiến trình đau khổ để tự hiểu chính mình. Cô phải tự mình xác định sự hiện hữu của mình trong một thế giới, nơi đó, người phụ nữ chỉ có thể là mẹ, là vợ, là vú em hay gái điếm. Kết hôn với người chồng xem ra là một việc hết sức tự nhiên vì cô em gái của chồng là người bạn thân của cô thuở còn đi học. Là một cô gái trẻ tuổi, Anne có sức quyến rũ của sự hồn nhiên vô tội, nhưng cô bé cũng hết sức ngây thơ, do đó dễ dàng bị cái mã ngoài của Jean Azevedo chinh phục. Anh chàng này, tuy thùng rỗng kêu to, nhưng lại có một sức quyến rũ đặc biệt với Thérèse, vì anh ta giúp cho Thérèse nhận ra sự độc lập của mình và gợi ra cho nàng khả năng về một cuộc sống hoàn toàn khác ở Paris.

 

Thérèse là một kẻ chỉ biết yêu mình, làm ngạc nhiên cả gia đình vì sự thờ ơ ngay cả với đứa con mình rứt ruột đẻ ra, bé Marie. Và nếu nàng đồng thời cũng là một tên tội phạm, thì cũng đáng để được gợi nhớ rằng Mauriac đã gọi chính ngay việc sáng tạo ra tác phẩm này là một hành vi bạo lực. Cũng quan trọng không kém là chi tiết bất kể bản chất đam mê của Thérèse, thái độ phản kháng lại chồng của nàng không phải vì một người đàn ông khác; hành động của nàng là một ý đồ có tính cách bản năng và tuyệt vọng nhằm phá vỡ những giới hạn bao vây chung quanh sự hiện hữu của chính nàng. Tác phẩm được bắt đầu vào lúc gần cuối của câu chuyện, kể lại những đau khổ nàng đang gánh chịu, qua đó có lẽ nàng sẽ vươn tới được một mức độ mới trong nỗ lực tự hiểu biết mình.

 

Rất khôn ngoan, Mauriac đã không cố tìm câu trả lời cho những câu hỏi mà tác phẩm đặt ra. Ông đã để cho độc giả tự mình tìm ra một kết luận giữa sự bí hiểm của tác giả, qua hình ảnh nhân vật chính Thérèse bước vô định giữa hè phố Paris, chuẩn bị cho một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ của mình”.

 

Tác Phẩm Thérèse Desqueyroux qua bản dịch Người Vợ Cô Đơn của Mặc Đỗ năm 1956, bản dịch Cuộc Tình Buồn của Nguyễn Bích Như & Thu Uyên ở trong nước năm 1990, bản dịch Thérèse Desqueyroux của T.Vấn ở Mỹ năm 2022. (Trước đây, tôi “dị ứng” với cách dịch trong nước phiên âm tên nhân vật, Nguyễn Bích Như & Thu Uyên không làm điều đó). Về văn phong qua 3 bản dịch tùy theo cảm nhận của độc giả nhưng (riêng cá nhân tôi) đắc ý với bản dịch của T.Vấn.

 

Đầu năm 2023, T.Vấn còn cho ra mắt tác phẩm dịch “Chỉ Là Nỗi Đam Mê” [Passion Simple (1991)] của Annie Ernaux, dựa trên bản Anh ngữ của Tanya Leslie. Nhà văn nữ người Pháp Annie Ernaux, đoạt giải Nobel Văn Chương 2022.

 

Ở đây, tôi chỉ đề cập thuần túy về lãnh vực văn học trong tình đồng môn & bạn văn. Bài nầy được viết nhân dịp ngày giỗ đầu tiên của chị Kim Oanh và với niên đệ nhân kỷ niệm 50 năm ngày Khóa Nguyễn Trãi III ra trường (1973-2023).

 

Vương Trùng Dương

(Little Saigon, 1/2023)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẩu đối thoại trên là của chàng thanh niên 27 tuổi là Ralph White với nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ trong những ngày cuối tháng Tư năm 1975 của miền Nam Việt Nam trong cuốn hồi ký Thoát Khỏi Sài Gòn (Getting Out of Saigon) của ông vừa được nhà xuất bản Simon and Schuster phát hành...
Hai mươi lăm truyện trong tập sách, ngoài những mảnh đời oái oăm của thế thái nhân tình trong đời sống xã hội hiện tại. Bạn và tôi còn đọc được những câu chuyện thú vị như: Vong Hồn Trên Sông, Đứa Con Phù Thủy, Đôi Mắt Tiền Kiếp, Hẹn Hò… Những câu chuyện có tính cách hoang đường, ma mị, xảy ra ở một quận lỵ heo hút nào đó của tỉnh Quảng Trị, nơi tác giả sinh ra và đã có một thời thơ ấu êm đềm...
Trust (tạm dịch là Niềm Tin) là cuốn sách thứ hai, đoạt giải Putlizer 2023, thuật lại những khúc mắc của chủ nghĩa tư bản thời hiện đại. Mở đầu bằng sự việc dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, sau những đợt bùng nổ và sụp đổ của lịch sử kinh tế từ quan điểm của từng cá nhân. Trust là một tác phẩm hiện đại táo bạo — trong suốt bốn màn, mỗi màn được đóng khung như một “cuốn sách” — tìm cách phá bỏ những quy ước chắc nịch làm nền tảng cho những huyền thoại về sức mạnh của nước Mỹ.
Tôi đưa quyển sách cho con trai, nói con đọc đi. Nó đọc một hai truyện gì đó, rồi nói, ngôn ngữ cũ mèm má ơi. Có vài chỗ khó hiểu nữa. Phải, ngôn ngữ “cũ mèm”, và có vài chỗ “khó hiểu” nữa, ngay cả với tôi. Con tôi thuộc thế hệ của Doraemon rồi Harry Potter. Tôi thuộc thế hệ của Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, của những truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc trên tạp chí Hương Quê một thời xa lơ xa lắc có lẽ đã trên dưới 60 năm. Cho nên tôi đã miệt mài “ôm” quyển sách trong nhiều ngày liên tục, rảnh được lúc nào là đọc, không theo thói quen con-cà-con-kê của mình...
Tôi chẳng nhớ là mình đã đi vào Thiền tự bao giờ, chỉ biết rằng những ý tưởng nhuốm màu Thiền đã nhật tích nguyệt lũy thấm dần vào tôi như những giọt nước rơi liên tục làm lõm phiến đá. // I cannot recall when I entered Zen Buddhism. I only know that, like drops of water persistently indenting a stone, Zen-like thoughts have been seeping into my mind day by day and month by month.
Tác giả là Ben Kiernan, sinh năm 1953, từng là Giáo sư “Sử học và Các Môn Học Quốc tế và Vùng” tại Đại học Yale nổi tiếng. Ông từng lập ra Chương trình về Diệt Chủng Cambodia và Chương Trình Nghiên Cứu Về Diệt Chủng. Sách của ông trước đây bàn về diệt chủng ở Cambodia cũng như trong những giai đoạn khác của lịch sử loài người
Chúng ta phần lớn từng học sử theo niên đại với nhiều chi tiết tên tuổi cần phải nhớ để đi thi, hay đọc sử nước nhà qua lăng kính của một người công dân gắn bó với quê hương và di sản tổ tiên để lại. Tác giả Goscha là một nhà khoa bảng chuyên về sử học từng được một giáo sư sử học quốc tế nổi tiếng người Việt (từng là giáo sư của Miền Nam Việt Nam) hướng dẫn, và từng huấn luyện và khảo cứu ở nhiều nước liên hệ đến Việt Nam (Pháp, Mỹ, Canada, Úc, Thái Lan). Được một chuyên gia tầm cỡ như thế trình bày những câu chuyện về đất nước, ông bà của của chính chúng ta qua lăng kính đặc biệt của một người ngoại cuộc giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn, và không kém phần thú vị về một đề tài tuy cũ nhưng vẫn còn nhiều điều mới mẻ.
Tuy nhiên, cuốn “Sống Với ‘Thán Dị Sao’ Của Ngài Thân Loan” còn có một phần rất đặc biệt mà chính phần này làm cho tôi thật sự thích thú. Đó là bản dịch tiếng Việt do HT Thích Như Điển thực hiện với đầy đủ 18 chương của cuốn “Thán Dị Sao” từ bản tiếng Nhật hiện đại của Giáo Sư Yamazaki Ryuumyou.
Tóm lại, A History of the Vietnamese là một cuốn sách rất công phu, chi tiết về lịch sử Việt Nam, chú trọng về văn hóa và xã hội, do một Giáo sư Sử học và Việt học người Mỹ từng huấn luyện nhiều sử gia Mỹ về chuyên ngành Việt Nam. Người quen đọc (hay học) sử tiếng Việt theo truyền thống chủ nghĩa dân tộc, hay người từng dùng chủ nghĩa dân tộc như một khí cụ chính trị có thể không đồng ý về một số kết luận, ví dụ về nguồn gốc tiếng Việt hiện đại hay về sự hiện hữu hay không của một "quốc hồn, quốc tính" Việt Nam. Tuy nhiên, đọc một cuốn sử dùng các sử liệu mới nhất và phân tích theo chiều hướng khoa học sử và chính trị hiện đại, người viết bài này cảm thấy biết ơn một nhà học giả ngoại quốc đã đem bao nhiêu thời giờ và tâm huyết để tạo nên một công trình đồ sộ như vậy, chưa từng có trong Anh văn. Ước mong một bản dịch tiếng Việt với đối chiếu các danh từ Anh-Việt và Hán sẽ xuất hiện một ngày nào đó không xa.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.