Hôm nay,  

Một phút trái tim đòi mót chữ

08/06/202212:26:00(Xem: 1791)

nhchung-bia

 


(Nhân đọc Mót Chữ Trong Kinh 2 của Nguyễn Hàn Chung, MỞ NGUỒN xuất bản, 2022)

 

Cuối tháng 3 bắt đầu có chút nắng lên hơi ấm và những cơn gió lạ. Như những cơn nồm trên quê hương thổi dốc bay về từ quá khứ. Biển xanh xao và gầy xuống dưới luồng thốc đông nam. Cuối tháng 3 tôi đọc bản thảo “Mót Chữ Trong Kinh 2” của nhà thơ Nguyễn Hàn Chung. Có tiếng chim ríu rít lùm cây. Chim hót không kinh động chào xuân. Không giật thót như chim của Vương Duy trong một đêm trăng sáng, Nguyệt xuất kinh sơn điểu. Nhưng tôi bấn người vì tiêu đề tập thơ, Mót Chữ Trong Kinh. Mót là một cảm giác nhột nhạt, khó chịu không thể nén lại được khi thân thể muốn bài tiết. Mót cũng là sự tìm tòi nhặt nhạnh các thứ rơi vãi, bỏ sót đem về. Nguyễn Hàn Chung nhặt nhạnh chữ nghĩa hay ông có thừa chữ nghĩa đến lúc phải tuôn trào, tinh hoa phát tiết? Tôi nghĩ cả hai lý do đều đúng sau khi đọc hơn 350 bài thơ trong “Mót Chữ Trong Kinh”. Ông tâm sự rằng,

 

một phút trái tim đòi mót chữ

mót chữ mai nhặt nhạnh chữ chiều

(Chữ)

    

Và Nguyễn quân muốn nói gì khi vận đến chữ “kinh”? Thế nào là kinh?

Kinh là bắp thịt co giật dữ dội không tự chủ được? là sợ hãi kinh động? Là kinh sách tôn giáo, văn chương? Là đường kinh tuyến bắc nam? Là chịu đựng thử thách, từng trải kinh qua? Kinh chỉ tới đường mạch đi trong thân thể mà cũng là định kỳ hàng tháng của người nữ, kinh nguyệt. Kinh cũng còn là tên tộc Việt mình.

 

Thử đọc bất cứ đoạn thơ nào trong tập “Mót Chữ Trong Kinh 2” để xem ta học được những gì từ chữ “kinh”.

 

Này nhé, khi bắp thịt co giật không tự chủ được, ta gọi là động kinh. Mí mắt cũng có bắp thịt đấy chứ, giật giật khi có điềm báo hỉ sự, điện chấn não mạch cho mắt xoe tròn.

 

Bầu căng náo động bao người

nước da man dại bắp đùi man nhiên

lòng yêu huyễn huyễn huyền huyền

thỏa thuê đôi mắt quàng xiên nhiễm trùng

(Trước một bức tranh truyền thần)

 

Kinh là sợ? Có khi sợ và hãi đi cùng nhau thành sợ hãi. Nguyễn không thế, sợ chỉ là cách nói để mưu toan.

 

sợ hãi, mưu đồ hư nội tạng

nhà vắng tanh sướng nhứt: sập rèm

(Sướng nhứt)

 

Hai câu trên là sự rắp tâm và tinh nghịch để xua tan sợ hãi. Thật sự nhà thơ vốn vẫn có cái sợ không đâu. Thứ sợ hãi của nòi tình bắt gặp trong chớp nhoáng tàn phai dấy động đèn khuya, của lân la nỗi niềm lữ thứ, và chạm đến niềm cô độc của thi nhân, sầu bi tịch mịch không tên.

 

sợ tàn đông rớt lạnh ngày thu phân

(Trước một bức tranh truyền thần)

 

còn em sợ chết sợ đau

giống ta y hệt chịu sầu không tên

(Bi kịch tuổi tên)

 

Khi “kinh” là kinh sách dùng để nói đến những khuôn mẫu tiêu biểu cho học thuyết, tôn giáo, chủ nghĩa, Nguyễn Hàn Chung phát lộ một cách nhìn rốt ráo hơn, vượt thoát từ ngữ, kinh sách, những thứ đôi khi là sự trói buộc làm con người trở thành nô lệ của giáo điều.

 

Kinh không có nơi chùa tháp

Muốn rỗng rang phải đi tìm

(Con đường đạt đạo)

 

Cái rỗng rang của Nguyễn Hàn Chung có giống như niềm lưỡng lự phơi phới [hay phơi phới trong lưỡng lự] của nhà sư thi sĩ Ryokan khi đứng nhìn đám mẫu đơn dại bung nở trước mặt? Ông dang tay muốn hái và ông thụt rút tay về. Ryokan viết về khoảnh khắc ngưng đọng vắng lặng thiên thu một-vùng-cỏ-mọc-xanh-rì ấy như thế này,

 

Quý quá sao mà hái                           

Quý quá sao không hái                                  

(Too precious to pick

Too precious not to pick)

 

Đó là sự huyền bí đạm nhiên bắt gặp sau những lần chết đi sống lại trong cuộc cơn tư lự, của giằng xéo nhị nguyên hàm hỗn. Hái hay không hái? Câu-hỏi-ngàn-đời bát ngát ban sơ của Hamlet trở về, To be, or not to be? Có một giải đáp chăng? Nguyễn ung dung phong thái lửng lơ nhưng khác nào đăng đường mở khơi nếp gấp, sống và chết, mất và còn, có chi trầm trọng? Bởi chưng mọi tồn tại đều dựa trên tính tương tác, tương quan và tương thuộc với nhau.

 

Chết không phải là mất

Sinh không phải là còn

(Con đường đạt đạo)

 

Thế nhưng ai trong chúng ta không một lần đối đầu với chướng ngại trên bước đường truy tầm sự thật, Nguyễn nói hộ ta những bất lực dãi dầu,

 

trang kinh bát nhã niệm hoài

ba la yết đế lạc loài vô minh

(Bái biệt)

 

Bình thường như mọi thứ bình thường, ông thuật lại ngõ lối khi khu, bốn bề thọ địch của lựa chọn. Lựa bên trái hay chọn bên phải đều chìm chao phẫn nộ, thi sĩ đu dây trong cuộc chơi bi thảm giữa hai triền vực. Ngứa từ đỉnh đầu tới khu, từ ban sơ đến nguyệt tận, từ khởi thủy mang mang đến vô chung, thi sĩ thõng tay bước vào đời dù biết rằng sẽ bị dập vùi thê thiết. Hắn nhất thiết phải yêu cõi trần gian này rất mực.

 

Thõng tay vào chợ

 

Gãi bên phải bên trái thù

Gãi bên trái bên phải từ

Thõng cả hai tay vào chợ.

Chịu ngứa đỉnh đầu tới khu...

 

Cuộc đời vốn phân biệt thật/hư, đúng/sai... những cái chỉ tồn tại trong suy tưởng của con người. Thật sự, thế gian vẫn diễn tiến như đang là, chỉ khác là ta không chấp nhận “cái đang là” theo cách chúng ta nghĩ. Đau khổ đâm chồi từ đó, sa mạc hoang liêu trổ nhánh vào hồn. Nguyễn dẫn ta đến một cách nhìn thong dong hơn, đầy trắc ẩn hơn.

  

Nhị nguyên

 

còn chút tri âm đừng rẻ rúng

đừng vò cho nát xé cho tan

tình có bao giờ sai với đúng

sai tan tành mà đúng cũng tan

 

Ông vạch ra chỗ thấy vậy mà không phải vậy,

 

khóc cười nào khác chi nhau

lắm khi lệ thảm chìm sau nụ cười

(Em và tôi 1 & 2)

 

Chỉ mới kể ra vài ba chữ “kinh” người đọc hẳn đã lắm kinh ngạc với chữ mót trong “kinh” của Nguyễn Hàn Chung. Thế rồi khi “kinh” nói đến định kỳ của người nữ, cái mốc phôi pha noãn rụng, kích tố bấn loạn sụt sùi thì thật là rắm rối với mùa kinh, “Quần sẽ đỏ từ khi trăng là nguyệt / Kinh là kỳ từ châu quận tân toan (Bùi Giáng). Hãy nghe Nguyễn Hàn Chung dí dỏm không kém, đề huề giao hảo đối thoại chon von.

 

Anh suy thận em rong kinh

Rứa là hai đứa đường tình bằng cân

(Phản đối Single Day 11/11)

 

Hoặc là,

 

Vầng trăng tới lúc mãn kinh

còn gieo nguyệt tận chúng sinh sa đà

nguyệt không rụng ánh trăng tà

dẫu trăng lu nguyệt vẫn là trăng thôi

(Vẫn là trăng)

 

Trăng lu vẫn là trăng thôi, Nguyễn có ý gì khi nói như thế? Bản lai diện mục vốn không thay đổi, cho dù bị hoàn cảnh khách quan bên ngoài làm che dấu đôi khi? Nói kinh nguyệt là dùng phương tiện để nhắm đến hạng sơ căn vốn ưa thích chuyện trăng hoa nhưng chủ đích vẫn là hướng đến cái tận cùng nguyên lai bản thể vốn trong sáng tự ban đầu? Đọc thơ Nguyễn Hàn Chung lắm khi độc giả chớ nhìn ngón tay mà quên đi mất điểm chính là mặt trăng.

 

Thế giới này là một tập hợp của trật tự hay hỗn mang? Hay hỗn mang trong trật tự?

Nhân vật kiếm hiệp của Kim Dung chánh có, tà có. Chất tà hiện hữu trong chánh phái và đạo lý thể hiện trong giới quần ma. Từ đó có Nhất dương chỉ, có Cửu âm chân kinh, có Tịch tà kiếm phổ, v.v... Hàm mô công là thấy ngược đời hay cuộc đời vốn mang lăng kính của chú dơi? Mối bùi nhùi không đoạn kết, cái bắt đầu khởi từ lúc cái cuối chấm dứt? Ở trong nhân, quả đã mang hình? Ai sanh sự trong bài thơ “Sinh sự sự sinh”?

 

sinh sự sự sinh

 

sự sinh sinh sự

sinh ra

sự sinh sinh sự

sinh là

sự sinh

sự sinh

sinh sự sự tình

sự tình

sinh sự sự sinh

sinh là…

 

Hoặc lửng lơ qua lại giữa em và gió là cốt nói đến một khi trong/ngoài nhất điểm thì lý sự viên thông?

 

Gió, em & Trốn

 

Gió trần truồng trốn bên trong

Em trần truồng trốn trong lòng gió lên

Trần truồng gió trốn trong em

Em trong gió trốn que diêm trần truồng!

 

Chữ mót trong “kinh” cũng có thể là gần gụi tương lân với người Kinh. Kinh là Việt, giòng giống Lạc Hồng vốn sống quay quần theo đơn vị làng xã tự ngàn xưa. Cơ cấu xã hội đó truyền thừa từ tổ tiên qua bao đời đã khắn chặt vào tâm tư con Việt, dẫu lang bạt gần hay xa vẫn một lòng nhớ nước nhớ làng. Tâm tư Nguyễn Hàn Chung khi viết về quê hương mình không chỉ là tấm lòng của riêng ông mà còn ngân lên biết bao đồng vọng của những người Việt tha hương khắp nơi trên thế giới. Đọc ba bài thơ dưới đây, liền ngay tháng tư đen tràn về, ngậm ngùi như đọc khúc từ Ai Sính của Khuất Nguyên, “Theo sóng gió mà trôi nổi a / Biết lênh đênh về chốn nào...

 

Tánh Việt

 

Mẹ sinh tôi dưới cổng làng

Tôi không cần biết đèo ngang, biển chiều

Phi trường cao tốc cầu treo

Tôi không thèm biết tôi yêu cổng làng

 

Ước mơ đơn giản


Tôi chỉ có ước mơ đơn giản

Nước Việt tôi thoát khỏi nước nghèo

Người dưới đáy bớt buồn bớt khổ

Người trên tầng bớt trá bớt điêu

 

Chiều cuối năm

 

Cuối năm phương viễn còn bao nữa

Mắt nhớ hàng cau da nhớ sông

tóc nhớ sương vờn trên đỉnh núi

nhớ chó cong đuôi đuổi gió đồng

 

Nhớ nhà đã mất, nhớ mẹ già tần tảo lam lũ chốn xưa, lòng dạ nào mà nuốt miếng ngon nơi quê người. Cái thất kinh giật thót để nhớ mãi cảnh hàn vi bên mẹ ngày đó. Ôi bịn rịn mà nhân ái làm sao,

 

Ăn quán sang nhớ mẹ

 

Tôi thất kinh dòm cái menu

mắt trìu trĩu xốn khói chiều thu

bào ngư vây cá thơm nghi ngút

hai mẹ con nửa chén cá đù

 

 

oOo

 

 

Đọc suốt tập Mót Chữ Trong Thơ 2 với hơn 350 bài thơ tứ tuyệt đủ thể loại từ ngũ ngôn, thất ngôn qua đến lục bát, tự do, tôi nghe từng triều sóng động, khi êm ái, khi nhọn vót chon von và vượt trội là sự phiêu dật hồn nhiên trong thơ Nguyễn Hàn Chung. Từ ngữ có lúc hàn lâm bình sinh thông suốt, khi thì thuần phác điền dã như nhiên. Người đọc bắt gặp tính trào phúng châm chọc giễu nhại trong thơ ông về những trơ trẽn, phù phiếm của cuộc phù du nhưng ta có thể thấy phía sau những bài thơ ấy hiển lộ một kinh nghiệm sống sâu sắc, thâm trầm đầy tố chất nhân hậu và bao dung. Lại có lúc mang tính cách “vui thôi mà” của Bùi Giáng, nhẹ tênh và đặc biệt của những nhà thơ từ xứ Ngũ Phụng Tề Phi thật đáng yêu thích.  

 

Tôi bắt gặp hai câu thật ưng ý trong tập thơ. Chỉ hai câu mà trực nhập vào ngay trung tâm phơi phới phiêu nhiên. Bốn bể rừng thiêng dồn lại, dư âm huyền diệu kéo mãi dài trong hai chữ “Em về”,

 

Em về eo gió hay sương núi

Tôi vẫn đèo em trong chữ tôi

(Lại bắt chước TTKH)

 

Hai câu thơ như dẫn về nơi bất tận, bần bật tiếng gió để kết thúc ở một cái eo. Eo gió. Eo gió là chỗ bóp nghẹt bình sinh cho tinh thể ra hoa. Nơi ấy gió chuyển từ triền vực trèo leo hướng mới [thi ca nhờ vậy mà phấn chấn xông hương?]. Nơi ấy cũng là thắt lưng cho hơi thở phà sương khói lên núi đồi. Một cái gì đồ sộ phối ngẫu vô biên. Em là người nữ phập phồng. Em là Nàng Thơ phơi phới. Tôi chỉ xin chút đèo bồng, cho em phiếu diểu mối bồng thơ tôi. Em có về, hay em sẽ không đến, có hề chi, vì em sẽ bát ngát hơn trong những lần vắng mặt.

 

Một nhận định sau cùng: Độc giả phải trầm lắng vào thi lâm ấy vì có rất nhiều cánh rừng đòi hỏi sự thám hiểm. Và như thế, tôi xin tạm kết lại ở đây để cùng Nguyễn quân dựa vào mênh mông mà hỏi mênh mông một lời,

 

Hỏi minh mông

 

Thì cứ chơi đi cho mãn cuộc

cuối rồi dè dặt cũng hư không

khắc mấy chữ thơ vào khói thuốc

mất còn sau trước hỏi minh mông

 

Có phải chăng như lời hát TCS, “Ta nghe đời rất mênh mông / Trong chân người bước chậm chậm”?

 

Vũ Hoàng Thư

(Tháng 3, 2022)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ Nhật (2PM-5PM), 24 tháng 3 năm 2024, GS Trần Gia Phụng từ Canada sang thuyết trình “Những Học Thuyết Chính Trị Hoa Kỳ Về Chiến Tranh Việt Nam” tại Viện Việt Học, 15355 Brookhurst St, Suite 222, thành phố Westminster và tham dự Giỗ Lễ Nhà Cách Mạng Phan Chu Trinh Lần Thứ 98 cùng ngày của Hội Ái Hữu Phan Chu Trinh Đà Nẵng (ông là giáo sư dạy sử của trường nầy)...
Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc vừa ấn hành tác phẩm “9 Khuôn Mặt, 9 Phong Khí Văn Chương” – nội dung là viết về Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên. Cuốn sách dày 440 trang, chữ nhỏ, gồm các nhận định của Bùi Vĩnh Phúc (BVP) về các nhà văn, nhà thơ đã nuôi lớn một thời tuổi trẻ của tôi. Họ là những cây đa bóng mát của tôi, không chỉ ngoài đời và trong văn học, mà cũng là cả trong các giấc mơ những ngày tôi còn ôm sách tới trường. Tôi đã nói với Bùi Vĩnh Phúc như thế, rằng những người này, trong sách của bạn, thiệt sự là cả một cánh đồng tuổi thơ của tôi. Và tôi nghĩ rằng không thể nào viết đầy đủ về các khuôn mặt văn học này.
Xưa nay, mọi cuốn tiểu thuyết đều được xây dựng quanh một chủ đề. Dù trừu tượng hay cụ thể, từ chủ đề “mẹ” rẽ ra những nhánh chủ đề “con” - tất cả bám chặt vào một (hay hơn một) nhân vật, đan xen giữa những tình tiết, nối thắt những mẩu chuyện, từ đó phần hồn cuốn tiểu thuyết xuất hiện, tồn tại giữa những trang giấy, hóa kiếp thành suy tư của người đọc.
Đây là tập sách tranh song ngữ Anh-Việt của họa sĩ Lê Triều Điển. Xuyên suốt quyển sách là quá trình sống, học hành, sáng tác và bao nhiêu kỷ niệm từ thơ ấu cho đến ngày hôm nay. Đọc qua tập sách tôi thấy họa sĩ đã chọn tên sách có ý nghĩa rất hay, đầy hình tượng, thanh âm và sắc màu. Cuộc đời nhiều chìm nổi lênh đênh của người họa sĩ y hệt như những dòng sông mang nặng phù sa của vùng đất phương Nam...
Trong đời, thế nào cũng có lúc chúng ta nằm bệnh, hoặc có người thân nằm bệnh. Trường hợp như thế, lời khuyên thực dụng nhất là nên tìm đọc và áp dụng những dòng thơ Ngọa Bệnh Ca của Ni Trưởng Trí Hải. Thí dụ như những dòng thơ: Hãy để tâm vắng lặng Theo dõi hơi ra vào Thấm nhuần chân diệu pháp Trong từng mỗi tế bào Hãy biến ngay giường bệnh Thành một chốn đạo tràng.
Đọc xong đã lâu, định bụng sẽ viết những cảm nhận nhưng cứ lần lữa hoài. Dẫu biết rằng “Phò mã tốt áo” không cần phải khen, nói chỉ thêm dở, tán thêm tệ, viết lại thừa nhưng không viết thì tâm cảm thấy không yên. Cuối cùng rồi tôi cũng thắng được sự lười biếng để ngồi xuống trang trải chút tâm ý với đời. Cuốn Trong Những Thoáng Chốc dày 350 trang là tập tùy bút và tạp ghi của nhà văn Vĩnh Hảo. Vĩnh Hảo là một cây bút đầy nội lực và sung mãn, anh viết trong suốt mấy chục năm ở hải ngoại. Anh đã cho xuất bản 13 tác phẩm văn và thơ, ngoài ra còn có hàng trăm bài viết khác trên các trang mạng của bạn bè. Anh còn có trang web www.vinhhao.info lưu giữ tất cả những sáng tác. Vĩnh Hảo vừa là họ tên và cũng là bút danh.
Đọc xong hai quyển “Theo dấu thư hương” và “Chỉ là đồ chơi” của nhà văn Trịnh Y Thư đã lâu, trong lòng cảm hứng muốn viết một chút cảm nhận nhưng cứ bận bịu nên lần lữa mãi. Thật ra mà nói thì tôi cũng không biết viết như thế nào và bắt đầu từ đâu, đây là lần đầu làm cái việc viết cảm nhận về sách. Tôi biết mình không có khả năng đọc sâu, nhìn nhận hay phân tích. Tôi xưa nay vốn đơn thuần dùng cảm tính chứ chẳng biết dùng lý tính nên cứ mơ hồ ngu ngơ...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Tiểu Lục Thần Phong, tên thật là Nguyễn Thanh Hiền, sinh năm 1971, nguyên quán Diêu Trì, Bình Định, hiện sinh sống tại Georgia, Hoa Kỳ, là cây viết sung sức và quen thuộc của các báo Chánh Pháp, Việt Báo (California), Trẻ (Houston, Texas)... Đã xuất bản 10 tác phẩm gồm Văn, Thơ và nhiều tác phẩm in chung khác...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.