Hôm nay,  

Trần Văn Sơn & Nửa Thế Kỷ Với Hành Trình Thơ

25/09/202118:40:00(Xem: 2292)


“Thời gian hủy hoại các lâu đài, nhưng lại làm giàu những vần thơ”. 

(Jorge Luis Borges 1899-1986, nhà văn, nhà thơ Argentine)

 

blank


Kể từ tập thơ Vườn Dĩ Vãng ấn hành năm 1972 của thời trai trẻ phục vụ trong quân ngũ nơi quê nhà cho đến tác phẩm Hồi Sinh thực hiện năm 2020 nhưng vì trục trặc kỹ thuật, ấn hành năm 2021 nơi xứ người, nhà thơ Trần Văn Sơn đã trải qua cuộc hành trình từ những bài thơ xuất hiện trên trang báo ở Sài Gòn vào giữa thập niên 60 cho đến thời điểm ấn hành tuyển tập nầy với thi ca hơn nửa thế kỷ.

Tuyển tập thơ văn Hồi Sinh dày 346 trang gồm những bài thơ đã ấn hành trong Vườn Dĩ Vãng (1972), Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa (2009) và những sáng tác sau nầy cùng với những bài viết về bạn thơ. Mở đầu tác phẩm nầy “Thay Lời Tựa” với bài viết của Ngô Nguyên Nghiễm, bạn văn thâm niên từ quê nhà:

“Những tháng giữa năm 1972, tôi mới trực tiếp diện kiến với Trần Văn Sơn, khoảng hai lần, do các nhà thơ Thụy Miên, Nguyễn Lê La Sơn, và sau đó là Phạm Nhã Dự, Trần Phù Thế, tháp tùng đến, giới thiệu và bàn chuyện văn chương, in ấn. Cuối tháng 7/1972 nhà thơ Thụy Miên khốc liệt với tai nạn ở Sóc Trăng, bằng hữu còn quá đau lòng và hoang mang cực độ, nên tôi quên lãng chuyện Trần Văn Sơn và những bàn tính của thi tập đầu tay Vườn Dĩ Vãng ra đời.

Cuối năm 1972, tình cờ tản bộ qua cầu chữ Y sang đường Cao Đạt, chỉ cách tệ xá một khoảng ngắn, chợt thấy Lưu Nhữ Thụy đang mày mò in typo bìa cho thi tập Vườn Dĩ Vãng của Trần Văn Sơn. Thì ra, Trần Văn Sơn giao Lưu Nhữ Thụy ấn hành tập thơ. Nhà in Cao Đạt, chỉ có một máy dập typo, ngoài ra là in lụa, nên tôi lấy tập bản thảo Vườn Dĩ Vãng đọc lại, thơ thật hay, và bay sang nhà in Chính Nguyên nhờ nhà thơ Nghiễm Vy ấn hành. Lúc này, thi phẩm Vườn Dĩ Vãng là tác phẩm thứ 6 của NXB Khai Phá đã được giới thiệu với độc giả, sau tác phẩm của Lâm Chương, Nguyễn Thành Xuân, Hà Thúc Sinh và tôi. Với tài hoa và kỹ thuật điêu luyện, Trần Văn Sơn thành công nhiều ở tập thơ đầu tay…”.

Bài thơ Vườn Dĩ Vãng sáng tác năm 1969 làm tựa đề cho tập thơ đã in trong trang 78 của tuyển tập:

“Một vài lần ghé lại thăm em

Hàng sứ rụng bông vàng trước ngõ

Hồn bâng khuâng bóng dựng quanh thềm

Rêu xanh kín tường xiêu mái đổ…

… Nay ghé thăm tình xưa vườn cũ

Thấy xác xơ không một bóng người    

Tình đã rụng bông vàng trước ngõ

Vườn quạnh hiu một bóng mặt trời”.

Và, bài thơ Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa sáng tác “ngày ra tù Cộng Sản, 1984” cũng là tựa đề cho tập thơ. In nơi trang 91:

“Dẫu không cửa không nhà

Vẫn an nhiên mà sống

Dẫu không rượu không trà

Vẫn hằng đêm nuôi mộng

Một ngày. Một ngày qua

Khốn khó vây quanh ta

Cháo rau ngày hai bữa

Chưa đủ ấm thịt da

… Sáng nay trời thật đẹp

Hương ngào ngạt quanh nhà

Vườn ai vừa mở cửa

Thấp thoáng vài nụ hoa”.

Với tập thơ nầy, Nguyễn Mạnh Trinh với lời kết:

“Đọc thơ Trần Văn Sơn, như nhìn ngắm lại một chân dung của một người bình thường trong thế hệ chúng ta. Đi lính, đi tù, đi Mỹ, những cái đi ấy hình như hầu hết chúng ta đều có chung. Những cái đi khởi từ một cuộc chiến tranh tàn khốc. Trải qua những nhọc nhằn bi thương, có lúc cũng hào sảng luận anh hùng, cũng có lúc giở tỉnh giở điên trong cơn say ngậm ngùi nhìn thế sự, thơ như những phác họa của một thực tế mà bất cứ ai cũng có lúc trải qua. Thành ra, thơ lại là những chia sẻ của những người hiện giờ đang sống đời lưu lạc , đang hụt hơi với chuyện cơm áo xứ người. Có mấy ai bằng lòng với hiện tại, với những gì mình đã có trong tay. Nhưng rồi cũng phải nhận ra một điều. Cuộc đời dù ở đâu và bất cứ ở nơi chốn nào, cũng cần một tấm lòng. 

Trong thơ Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa, quả tôi đã thấp thoáng thấy mình của đám đông trong thế hệ ấy. Làm thơ, có phải là để trung thực và sòng phẳng với đời, để có lúc còn một chút nắng vui tươi, của một vài sợi mây mơ mộng. Qua bao nhiêu ngã đường đã vượt, trải bấy nhiêu cay đắng ở đời, thì có lúc, thơ đã làm gậy chống để giúp đỡ đôi chân trèo lên dốc đứng nhân sinh muôn đời chập chùng trước mặt…”.

Và với, Phan Bá Thụy Dương, cùng nơi chốn và gần gũi với nhau: “Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa là sự thể hiện của những tiếng tơ đồng trầm sâu, truyền cảm. Đó cũng là tiếng lòng đầy ắp chân tình, chân ái của một người làm thơ, coi thơ như lẽ sống, coi bằng hữu như anh em thân thiết, ruột thịt”.

Với tựa đề Hồi Sinh cũng là bài thơ ở trang 23, và trang 5 với chân dung tác giả qua nét ký họa của Vũ Uyên Giang với hai câu thơ: “Hiểu sao thấu ra sao ngày tận tuyệt. Phút hồi sinh tìm chốn cũ quay về”.

Hơn 140 bài thơ, trong đó có Khúc Ngâm Đoạn Trường với 10 bài thơ (từ trang 230 đến trang 239) và truyện thơ gồm 13 trang (240-252) thể thơ lục bát về mẩu chuyện huyền thoại từ Quảng Nam đến Bình Tuy mà tác giả biết được khi phục vụ ở tiểu khu nầy.

Trần Văn Sơn sinh trưởng dưới chân Lầu Ông Hoàng, Phan Thiết, Bình Thuận. Năm 1968 nhập ngụ ở Trường Bộ Binh Thủ Đức, phục vụ tại tiểu khu Gia Định và sau đó thuyên chuyển về Bình Tuy.

Cuộc đời lính chiến được mô tả qua hình ảnh ở đơn vị tác chiến:

“Đêm nằm nghe vượn hú

Ba lô, súng gối đầu

Mắt mở trừng không ngủ

Rừng tiếp rừng âm u

Gió lòn qua kẻ lá

Cuốn tròn trong poncho

Rét từng cơn mệt lả

Đồi tiếp đồi bao la

… Đêm rơi sương ướt đẫm

Quả tim vết đạn hằn

Bao năm ôm súng đạn

Không một lần về thăm.

(Kích Đêm, 1971 – trang 128)

Dấn thân trong cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến thời điểm ngày tàn của cuộc đời binh nghiệp qua bài thơ Lui Binh Hành rất tuyệt, với tôi, đây là một trong những bài thơ hay trong thi ca người lính VNCH:

“Lui binh lui binh hề lui binh

Tướng giỏi nghiến răng nén bất bình

Chiến trận bao năm chưa chiến bại

Một ngày buông súng quỉ thần kinh!

… La Ngà, Gia Huynh địch vây khổn

Tánh Linh tràn ngập bầy kên kên

Quan nghinh đầu súng lính đoạn hậu

Sống chết trời cho súng nổ rền

… Tiểu đoàn ba trăm còn ba mươi

Mất tích thương vong lính tả tơi

Tận nhân lực anh hùng mạt vận

Xuôi đời theo vận nước nổi trôi!

Lui binh lui binh hề lui binh

Tướng giỏi nghiến răng nén bất bình

Trăm trận ra quân trăm trận thắng

Tháng tư bẽ súng đất trời kinh!

(Lui Binh Hành - trang 56, 56, 58)

Sau lần lui binh đó, Cộng Quân cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, quần đảo ngục tù dựng lên với Quân, Dân, Cán, Chính VNCH. Trước đây đọc bài Hành Phương Nam năm 1943 của Nguyễn Bính và Trường Sa Hành năm 1974 của Tô Thùy Yên với nỗi buồn man mác, Lui Binh Hành của Trần Văn Sơn với nỗi đau thương, uất hận thấu trời!

Bài thơ Tự Truyện viết cho hai đứa con thơ khi vào chốn lao tù:

“… Chuyện ngày xưa ba mẹ mới cưới nhau

Mẹ công chức ba quanh năm đánh giặc

Đồng lương mẹ chắt chiu từng xu từng cắc

Đồng lương ba tiền lính tính liền

Con chào đời tháng tư bảy mươi lăm

Anh hai con chưa đầy hai tuổi rưỡi

Ba mẹ con bị ném lên vùng kinh tế mới

Ngôi nhà từ đường đảng xẻ thịt phanh thây

… Mẹ gánh hai con mỗi đứa một đầu

Thất thểu đêm ngày trốn về thành phố

Chiếu đất màn trời đầu đường xó chợ

Mưa nắng che thân ống cống gầm cầu

Ba-mẹ-con bị bắt nhốt vào tù

Tội duy nhất đảng cướp nhà bịt miệng

Con khát sữa khóc la khản tiếng

Bầu vú khô mẹ vắt kiệt tia máu cuối cùng

Bạn tù thương pha nước lã muối đường

Đứa con lớn gặm khoai sùng ngộ độc

Mẹ thoi thóp ôm hai con khóc ngất

Cấp cứu rền vang tiếng vọng hư vô…

… Ba ra tù tháng mười một tám mươi ba

Chín năm khổ sai ba miền Nam - Trung - Bắc

Gia đình ta sống tiếp đời khổ nhục

Hành khất trời, hành khất đất Phương Nam

Hành khất dung thân ở cuối đường hầm

Tia nắng rọi nhắc ba mặt trời vẫn mọc...”

(Tự Truyện – trang 135, 136, 137)

Khi ra tù, trở về quê quán với hình ảnh bi thương:

“Cõng con dắt vợ leo đồi

Phá rừng làm rẫy cất chòi tịnh tâm

Vợ con tắm vũng trâu nằm

Lưng gùi tay rựa quanh năm cuốc cày

Đầu trần chân đất hôm nay

Mai sau rồi cũng bóng mây lưng đèo”

(Lên Rừng Làm Rẫy - trang 213)

Chia sẻ nỗi niềm với con về cuộc đời mình qua những dòng thơ chân thật khi trải qua cuộc đổi đời:

“Thời trai trẻ ba mơ làm khanh tướng

Mê văn chương và mê cả kiếm cung

Khi thất bại quay về ba chợt tỉnh

Rằng mẹ con là tia sáng cuối cùng”

(Tia Sáng Cuối Cùng - trang 199, 200)

Trong chốn lao tù, tôi đã đọc được nhiều bài thơ của nhiều bạn văn viết trong hoàn cảnh đó trải dài từ Nam ra Bắc, quặn đau và cảm động. Với Trần Văn Sơn, thời gian lao tù đó, tác giả chứng kiến hình ảnh bạn tù Nguyễn Văn Xa chết hai lần tại trại tù Yên Bái miền thượng du Bắc Việt, xác nằm trong chòi lá dưới chân đồi chờ sáng đem chôn. Bạn tù, một bác sĩ Quân Y QLVNCH, vô tình vào gặp, rờ ngực thấy còn ấm, làm hô hấp nhân tạo cứu sống ông. Lần thứ hai, xác ông cũng bị vứt trong chòi lá dưới chân đồi và được bạn tù khiêng vào trại cứu sống. Ông cùng gia đình qua Mỹ diện HO, ở Nam California. Hình ảnh đó được mô tả qua dòng thơ: 

“Khi bạn ta nằm im trong chòi xác

Ngực còn ấm hy vọng ngày họp mặt

Óc còn tươi mơ hạnh phúc gia đình

Bạn nằm im vĩnh biệt bạn bè thân

Bạn bè một thời nằm gai nếm mật

Bạn bè một thời chung lưng đấu cật

Nay chung tù, chung khổ nhục bên nhau

Đến tận cùng mới thật sự bắt đầu

Khi bạn ta nằm im trong bóng tối

Sự sống bắt đầu bằng bàn tay đồng đội

Bằng tình thương cứu sống Nguyễn Văn Xa

Bằng niềm tin thánh thiện bao la

Từ địa ngục bạn tìm về nguồn cội

Từ địa ngục bạn đến vùng đất mới

Và bắt đầu, thật sự của chúng ta

… Đến tận cùng mới thật sự hiểu ra

Sự sống bắt đầu gọi tên Nguyễn Văn Xa”

(Bắt Đầu – trang 71, 72) 

Tôi đồng cảm với Phạm Văn Nhàn khi viết: “Đọc thơ Sơn thấy đầy ấp những hình ảnh kỷ niệm của đời anh đã trải qua, nơi chốn, bạn bè, tù tội. Để rồi những nơi ấy đã gợi lên cho tôi những hình ảnh, địa danh mà tôi cũng đã đến. Những nỗi khổ trong trại tù cải tạo, miền Bắc hay miền Trung. Những người bạn tù thiếu ăn, thiếu thuốc khi ngã bịnh thì chết. Chiếc hòm không đáy lại được đem đến. Manh chiếu bó lại đem ra nghĩa địa tù để chôn. Bạn tù đi ngang qua, cúi đầu tưởng nhớ. Trại tù nào cũng giống nhau. Đói. Lạnh. Và khổ. Anh trải qua những trại tù miền Bắc. Tôi trải qua những trại tù miền rừng núi miền Trung. Đọc những câu thơ anh ghi lại trong tù, sao nghe buồn quá đỗi”.

Nỗi đau đó thấp thoáng qua những dòng thơ:

“Rừng phơi xác gỗ tươm nhựa hận

Suối cạn dòng khô sỏi đá buồn

Đất khổ gầm gừ cơn địa chấn

Chim biệt tăm thú dữ xa nguồn

Kẻ loạn tâm xẻ núi lấp sông

Biển tràn bờ ngập mặn ruộng đồng

Bão tố cuồng phong và khí uất

Nhuộm hồn u uẩn động huyền không

...Đành thả đời trôi dạt muôn nơi

Nhân gian điên loạn khóc hay cười

Đất chuyển hồn thiêng vào vũ trụ

Trăng sao soi sáng giấc mơ người.

(Đất Khổ - trang 39)

Bạn ta, Trần Văn Sơn, gầy ốm, chưa tới 50 ký nhưng trải qua chín năm trong lao tù nơi núi rừng miền Bắc, tưởng chừng bỏ xác như hình ảnh bạn tù Nguyễn Văn Xa nhưng được sống còn và cùng vợ con đi diện H.O tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Vì vậy tựa đề Hồi Sinh với bạn ta như từ địa ngục - Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của nhà văn A. Solzhenitsyn – khi sống lưu vong trên mảnh đất tự do.

Bạn ta, Trần Văn Sơn, thời chinh chiến cũng được gọi “đệ tử của Lưu Linh” nhưng khi hỏi bạn ta, chỉ khi nào “chén tạc chén thì” với bằng hữu nên trong thơ “thấp thoáng rượu và bạn bè”.

Bài thơ Uống Rượu Với Bằng Hữu (tại nhà Lê Hùng với Trạch Gầm, Thiết Trượng, Lê Phi Ô, Phan Bá Thụy Dương, Vương Trùng Dương...) nơi chúng tôi thương gặp nhau ở Little Saigon

“Rượu rót tràn ly nâng ly cạn

Lực kiệt thân tàn vạn nỗi đau

Càng uống nhìn nhau càng khóc hận

Giày Saut chưa dẫm nát rừng sâu

Rót thêm ly nữa mời bạn hiền

Chưa say sao mắt bạn rưng rưng

Thám sát tử sinh trong lòng địch

Sá gì ly rượu buổi tàn đông

Chiến trận bày ra trên bàn rượu

Bình Long - Quảng Trị - Chiến khu Đ

Pleiku - Bình Giả - Đồi Bảo Đại

Tráng sĩ đi không hẹn ngày về

Quanh quẩn bên ta hồn chiến hữu

Về đây gặp bạn chiến trường xưa

Sống gửi thác về, nâng ly rượu

Ta bạn chung lưng gió chuyển mùa

… Tàn tiệc chỏng chơ bàn ghế lạnh

Gặp nhau thoáng chốc vội chia tay

Bạn về ta ở đời hiu quạnh

Râu tóc bạc phơ tiếp nối ngày”

(Tuyển tập Hồi Sinh– trang 40, 41)

Khi Trần Văn Sơn viết về Hà Thúc Sinh của thời chinh chiến: “Rượu, thuốc thâu đêm, đời lính gặp nhau chỉ có thế, mượn rượu làm vui sau những lần hành quân gian khổ, sau những trận đánh khốc liệt. Có khi tiền lính tính liền, chia nhau ly rượu, điếu thuốc rồi ngậm ngùi chia tay mỗi người mỗi ngả, bạn về vùng địa đầu giới tuyến, ta trở lại sông rạch Cửu Long, tiếp tục cuộc hành trình trên con đường vô định…”. Khi hỏi bạn ta vào thời điểm đó vì hình như cả hai cũng “bạt mạng” giống nhau. Bạn ta chia sẻ trong cơn binh lửa đó với tử sinh nhưng nhìn lại “Một Thời Để Yêu & Một Thời Để Chết” như tựa đề tác phẩm của Erich Maria Remarque, nay tuổi già nơi xứ người tưởng chừng “một thời để chết” còn sáng tác và có nhau thì “Sá gì ly rượu buổi tàn đông”.

Dù cuộc đời của bạn ta đã trải qua bao thăng trầm, bất hạnh, nghiệt ngã như những đồng đội, chiến hữu trong giai đoạn tang thương của lịch sử nhưng trong thi ca lại chọn tựa đề khi đặt tên cho những “đứa con tinh thần” với Vườn Dĩ Vãng, Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa và Hồi Sinh. Nhà thơ lãng mạn Percy Bysshe Shelley của Anh ở thế kỷ 18 cho rằng: “Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình”. Và, cũng như Thanh Tâm Tuyền “Tôi không còn cô độc” vì những dòng thơ đã được đón nhận, chia sẻ với nhau.

Little Saigon, tháng 9/2021

Vương Trùng Dương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 17 tháng 10/2021, tại Hội Chợ Sách (Book Fair) ở Trung Tâm thương xá Eden, do Nhà Việt Nam tại Virginia và Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại tổ chức, “Tuyển Tập THƠ Chim Bay Mỏi Cánh” của nữ sĩ Cao Mỵ Nhân được giới thiệu lần đầu tiên...
Trong Vườn Mắt Em là một hợp tuyển gồm truyện & kịch chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Tây Ban Nha của tổng cộng 21 nước trên thế giới dùng tiếng này làm ngôn ngữ chính thức. Các nhà văn trong hợp tuyển này đại diện cho một nền văn chương tiếng Tây Ban Nha hùng hậu và đa dạng; họ là những người có sự nghiệp văn chương lẫy lừng: từ Gabriel García Márquez, María Luisa Bombal, Luis de Lión, đến những tác giả trẻ hơn đã khẳng định được vị trí của mình và được nhiều giải thưởng văn học như Claudia Hernández, Valería Luiselli, Patricio Pron, Julio Ramón Ribeyro… Dịch giả là Trần C. Trí, đã giảng dạy ngôn ngữ học Tây Ban Nha bậc đại học và cao học ở Nam California trong hơn hai mươi năm qua. Việc thực hiện hợp tuyển này là một quá trình tuyển lọc công phu của các tác giả đại diện cho 19 nước Nam Mỹ, thêm Tây Ban Nha và Guinea Ecuatorial ở châu Phi, và để chọn một truyện/kịch tiêu biểu cho từng nhà văn trong hợp tuyển.
Sách mới của nhà văn Phạm Quốc Bảo: Chuyện Nào Vẫn Cần Thuật Lại, cuốn II.
Tác phẩm mới phát hành của Lê Giang Trần là một tuyển tập nhiều bài viết, trong đó gồm 4 thể loại: Tản mạn, Bút ký, Truyện ngắn, Thơ. Trong thể loại nào, anh cũng thành công theo một cách cảm xúc rất riêng, với kiểu rất mực giang hồ chữ nghĩa, nơi nhà thơ Du Tử Lê đã gọi Lê Giang Trần là một “công tử Bạc Liêu bập bùng những hơi thở buồn”
Trong lần về nước đầu tiên, năm 1996, tôi ở Hà Nội ba tuần, gặp gỡ khá nhiều người cầm bút ở đó, từ Dương Tường đến Trần Quốc Vượng, từ Hoàng Ngọc Hiến đến Đỗ Lai Thuý, từ Phong Lê đến Văn Tâm, từ Lê Đạt đến Dương Thu Hương, từ Trần Dần đến Hoàng Cầm, từ Nguyễn Huệ Chi đến Bảo Ninh. Nhưng có cảm giác thân nhất là hai người: Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Xuân Nguyên...
Một người sống được gần một trăm tuổi, còn sinh lực dồi dào, nên chưa ra đi, đó là chuyện xưa nay hiếm. Hơn nữa, trong tác phẩm mới nhất: Tinh thần lãnh đạo, sáu nghiên cứu trong chiến lược thế giới (Leadership - Six Studies in World Strategy)...
Tác phẩm nhan đề Quan Âm Tế Độ, nơi bìa có ghi thêm đề phụ là: Chuyện tu hành khó khăn của Đức Phật Bà Quan Âm, gia tài văn học Phật Giáo Chữ Nôm. Do Nguyễn Văn Sâm phiên âm dịch chú giải, và Nguyễn Hiền Tâm đính chánh. Bìa trong ghi là: Truyện Nôm Quan Âm Diệu Thiện, từ nguyên tác Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Ca. Nhìn sơ khởi, thấy trước tiên, đây là một tác phẩm mang văn phong Nam Bộ. Khi người viết mở bất kỳ, thí dụ, ra nơi trang 175, thấy dòng thứ 3479 viết “Tay chưn buộc trói thiết tha” là thấy ngay giọng người miền Tây. Thứ nhì, đây là thơ lục bát, trong văn phong ưa thích ngâm nga của dân miền Tây, cho thấy cách hoằng pháp của cổ đức khi phiêu dạt từ miền Bắc hay Trung về khai phá miền Nam, đã viết lên truyện thơ chữ nôm này để hoằng pháp.
Tuyển tập TIÊU DAO BẢO CỰ, gồm 4 quyển...
Cuốn Chí Phèo, thật ra, là hồi ký của một gã nông dân bị tha hoá trong một xã hội thối nát. Nam Cao chỉ là người chấp bút. Tôi không cần ai viết giùm. Tôi có thể tự viết. Viết, ở đây, là việc làm hoàn toàn có tính cá nhân, một tiếng nói của cái tầm thường. Tôi tưởng tượng: Một ngày nào đó, tâm hồn thật thanh thản, hết những tranh chấp trong/ngoài, quốc/cộng, người ta sẽ nhìn lại mấy chục năm văn học hải ngoại. Sau khi đọc những bài thơ hay, những cuốn tiểu thuyết lớn, hẳn có lúc người ta sẽ nảy chút tò mò muốn tìm hiểu những cái tầm thường chung quanh đời sống văn học: Lúc ấy cuốn sách này sẽ lên tiếng.
Lời Bạt tập thơ Lục Bát Tản Thần 2...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.