Hôm nay,  

'Thế Chiến Tương Lai Sẽ Bùng Nổ Vào Năm 2034', Tiểu Thuyết của Eliot Ackerman & James Stavridis

27/06/202110:44:00(Xem: 2459)

Điểm Sách: Thế Chiến Tương Lai Sẽ Bùng Nổ Vào Năm 2034
Tiểu Thuyết của Eliot Ackerman & James Stavridis (New York: Penguin Press, 2021)

American Purpose


Tác giả: Francis Fukuyma-Dịch giả: Đỗ Kim Thêm 


Lời người dịch: Bang giao Hoa Kỳ và Trung Quốc bước vào một bối cảnh mới sau khi Joe Biden nhậm chức: Cả hai cường quốc chấp nhận phục hoạt chủ nghĩa đa phương là một cơ chế tối thiểu và hữu hiệu để bắt đầu hợp tác song phương và quốc tế. 


Sau các cuộc hội thảo song phương tại Alaska, G7 và NATO, một sự thất vọng đã phơi bày: hai cường quốc trở nên gay gắt  cáo buộc nhau về bản chất của chế độ, nên các vấn đề tồn đọng như cạnh tranh mậu dịch, chuyển giao công nghệ, vi phạm nhân quyển, Đài Loan và Biển Đông không có những cách giải quyết mới cho phù hợp. Quan trọng nhất là cả hai đều quên lợi ích phát triển của các nước chậm tiến và giá trị phổ quát cho cộng đồng quốc tế.


Các bất lực nội tại của từng chế độ vẫn không được cải thiện mà còn trẩm trọng hơn. Trung Quốc và Hoa Kỳ đều không biện minh được tính cách ưu việt của chế độ trong khi cực lực bài bác các điểm yếu cùa đối phương. Trung Quốc không thể biện minh cho việc vi phạm luật thương mại quốc tế, tác quyền trí tuệ và chuyển giao công nghệ là một mô hình lý tưởng trong việc phát triển để cho các nước noi theo. Việc vi phạm nhân quyền trong nước, cạn kiệt môi sinh và lạm dụng địa chính trị để xâm chiến khu vực cũng không phải là đặc thù mà Trung Quốc tiếp tục hãnh diện. 

Mô hình phát triển của phưong Tây cũng đã đi vào tàn lụn vì các khùng hoảng tài chánh, bất bình đằng xã hội, bất công  kinh tế và kỳ thị sắc tộc không được giải quyết. 


Vấn đề không dừng lại ở các luận điểm về đối tác chiến lược, cạnh tranh kinh tế hay phân hoá xã hội mà quan trọng hơn là tìm xem cà hai Trung Quốc và Hoa Kỳ có  nguồn lực thực sự của một cường quốc, niềm tin nơi xã hội và  khả năng lãnh đạo không. Nhìn chung, không có một bảo đảm nào cho hai chế độ có thể vận hành hoàn hảo trong tương lai.


Hoa Kỷ và Trung Quốc hiện nay không quan tâm đến những  lợi ích của các quốc gia làng giềng và quốc tế. Cả hai đã sử dụng ngoại giao độc hại để làm trầm trọng hơn cho tình hình. Do đó, việc hổi phục chủ nghĩa đa phương không mang lại một ý nghĩa thiết thực nào như kỳ vọng ban đầu.

Tình trạng bất trắc sẽ là một lo âu chung cho cộng đồng quốc tế. Tình hình đối đầu tại Biển Đông có thể dẫn đến một cuộc thế chiến vào năm 2034 không, còn quá nhiều yếu tố để thảo luận mà tiểu thuyết giả tưởng cùa Eliot Ackerman & James Stavridi là một đóng góp hữu ích.


***


2034: A Novel of the Next World War tưởng tượng về một cuộc chiến tương lai giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc diễn ra trong cùng năm, giống như sách Hạm đội Ma của Peter Singer. Đô đốc Stavridis có một binh nghiệp nổi bật bao gồm việc chỉ huy một nhóm tàu sân bay chiến đấu không kích, Chỉ huy Bộ Tư lệnh Miền Nam và sau đó là Tư lệnh Tối cao Đồng minh Châu Âu, trước khi nghỉ hưu và trở thành Khoa trưởng của Trường Luật và Ngoại giao Fletcher. Cuốn tiểu thuyết là một bài đọc nhanh chóng và hấp dẫn, chứa đầy các chi tiết của các hoạt động hải quân mang lại cho sách rất nhiều màu sắc và tính hợp lý.


2034

Ảnh bìa sách


Điều đã làm tôi lo lắng đôi khi là chúng ta đã không hình dung được một cách phù hợp về một cuộc chiến trong tương lai với Trung Quốc có thể khởi động như thế nào. Viễn cảnh của một cuộc chiến như vậy là khủng khiếp đến nỗi người dân bình thường trong và ngoài khu vực chọn cách né tránh chủ đề này, đó là chuyện tự nhiên. 

Tuy nhiên, nếu muốn ngăn chặn một cuộc chiến như vậy, chúng ta cần nghĩ kỹ về những kịch bản này và soạn thảo kế hoạch đối phó. Ngày càng có nhiều sự công nhận là đối với sức mạnh quân sự của Trung Quốc, Đài Loan dễ bị tổn thương, cho đến nay, việc này có ít người coi trọng. Trong năm qua, Trung Quốc đã hành xử quá gây hấn đối với Đài Bắc, và những lời lẽ hùng hồn của các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi dùng các hành động quân sự để buộc phải thống nhất đất nước đã trở nên thường xuyên và chói tai hơn. Nếu không xem việc công bố các ý định này một cách nghiêm túc thì sẽ thật là điên rồ.

Trong Chiến tranh Lạnh, các chiến lược gia đã nghĩ qua một số kịch bản kinh điển cho một cuộc xung đột giữa khối NATO-Warsaw, như một cuộc chiếm đóng của Liên Xô tại Berlin hoặc Hamburg, hoặc một cuộc xâm lược toàn diện trên khắp đồng bằng Bắc Đức. Các kịch bản về cách mà hai bên có thể leo thang dẫn đến khái niệm mở rộng việc răn đe và các khoản đầu tư mới cho các lực lượng quy ước mà nó sẽ làm cho sự leo thang nhanh chóng ít có khả năng xảy ra.

Trong khi giới hoạch tại chổ như Bộ Tư lệnh Ấn Độ -Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đã làm việc tận tụy về những biện pháp dự phòng như vậy, đã có rất ít cuộc thảo luận công khai về một cuộc chiến trong tương lai ở Đông Á có thể xảy ra như thế nào, hoặc mức độ leo thang mà họ sẽ liên luỵ. Đây là những gì làm cho một tác phẩm hư cấu như 2034 mang lại một giá trị đặc biệt. Bất kỳ nỗ lực nào như vậy để đưa ra các kịch bản sẽ gây chỉ trích về tính hợp lý của chúng, và không có kịch bản nào có vẻ là hoàn toàn hợp lý cho đến sau khi nó xảy ra.

Cảnh báo hư hại: cuộc chiến diễn ra vào năm 2034 bắt đầu với việc Trung Quốc sử dụng việc kết hợp khả năng tấn công trên mạng và lén lút để làm che mắt không chỉ Hạm đội Thái Bình Dương, mà còn trong toàn bộ Cơ quan Chỉ huy Quốc gia Hoa Kỳ. Trung Quốc đồng thời giúp Iran kiểm soát máy bay của Mỹ kiểu F-35 ở Vịnh Ba Tư và buộc phi công phải hạ cánh ở Bandar Abbas. Cắt đứt các mối liên lạc trong chỉ huy, một nhóm khu trục hạm thực hiện một cuộc thao diễn quân sự về Tự do Hàng hải gần các đảo ở Biển Đông, nơi mà Trung Quốc tuyên bố là có chủ quyền, bị nhử vào trong một cuộc chạm trán, và ba chiến hạm Mỹ bị đánh chìm. Sau đó, gánh nặng của vị tổng thống Mỹ hoặc là sẽ lùi bước hoặc trả đũa. 

Khi cố gắng trả đủa, sau đó, Washington phải chịu một thất bại thậm chí còn nhục nhã hơn và mất một bộ phận đáng kể trong binh chủng Hải quân. Tại thời điểm này, Trung Quốc di chuyển về hướng Đài Loan, bạn phải đọc cuốn sách này để tìm hiểu về những hậu quả bất ổn sẽ xảy ra. Cho tôi ghi nhận rằng Tổng thống Hoa Kỳ vận dụng vũ khí hạt nhân như là một chiến thuật tương đối sớm vì không có nhiều lựa cách chọn thông thường khác như theo ý mình muốn sử dụng.

Ý tưởng cho rằng Trung Quốc có thể chế ngự toàn diện lĩnh vực không gian mạng kể từ ngay bây giờ cho đến mười bốn năm nữa, hiện nay việc này dường như không thể xảy ra. Nhưng đó là một lời cảnh báo hữu ích để cho thấy lĩnh vực chính của việc cạnh tranh chiến lược đã thay đổi đáng kể như thế nào và có thể tiếp tục thay đổi nếu chúng ta không thực hiện các biện pháp để bảo vệ chính mình. 

Đóng góp quan trọng hơn của cuốn sách là giúp cho chúng ta xác định mức leo thang. Nhiều chiến lược gia không kinh nghiệm sẽ nói rằng việc cố tình đánh chìm ba chiến hạm Mỹ và hậu quả là mất hàng ngàn mạng sống của người Mỹ sẽ gây ra một cuộc chiến toàn diện giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và vì lý do đó sẽ là một rủi ro quá lớn đối với bất kỳ giới lãnh đạo Trung Quốc nào. Nhưng đây chính xác là một phần của kịch bản mà tôi thấy hợp lý một cách đáng sợ. Nỗi sợ hãi về cuộc chiến toàn diện giảm đi theo cả hai chiều hướng: Hoa Kỳ phải mất mát nhiều như Trung Quốc trong bất kỳ sự trả đủa nào, và đó là việc thúc đẩy cho họ nhiều hơn là không leo thang thành chiến tranh toàn diện ngay trong những trường hợp này.

Loại tính toán sai lầm này đã xảy ra trước đây trong lịch sử. Người Nhật đã không tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, khi họ nghĩ rằng Hoa Kỳ sau đó sẽ tuyên chiến toàn diện và tiến quân qua Thái Bình Dương để chiếm đất Nhật Bản, hoặc họ có thể giành chiến thắng trong một cuộc chiến như vậy. Các nhà hoạch định của cuộc tấn công tính toán rằng một phản ứng như vậy sẽ quá tốn kém đến nỗi Hoa Kỳ sẽ lùi bước, và để Nhật Bản làm gì như họ muốn ở Mãn Châu, Singapore và Đông Ấn thuộc Hà Lan. 

Về sau khi nhìn lại, chúng ta mới biết rằng người dân Mỹ sẵn sàng trả cái giá đó, nhưng liệu họ có làm như vậy trong một cuộc chiến tương lai ở Đông Á không? Các vũ khí hạt nhân và triển vọng thương vong trầm trọng ở Lục địa Hoa Kỳ không xảy ra vào năm 1941, nhưng chúng sẽ xảy ra trong bất kỳ cuộc đối đầu nào trong tương lai với Trung Quốc.

Có những phần khác của kịch bản trong sách năm 2034 ít hợp lý hơn. Cuộc chiến Mỹ-Trung không leo thang vì có sự can thiệp của Ấn Độ, lúc đó đã phát triển khả năng quyền lực mà không ai lường trước được. Có tiền đề cho rằng khả năng trên không gian mạng đã trở nên quá hoàn hảo đến mức gây cho các cơ quan chỉ huy hoàn toàn mù quáng cho phép các nhóm tàu sân bay chiến đấu (CBG) hoạt động gần bờ biển của kẻ thù và vẫn xem là có liên đới. 

Nếu tiền đề về không gian mạng lỏng lẻo hơn, các CBG trở nên rất dễ bị tổn thương nhiều hơn trước so với loại tên lửa đạn đạo và tầm xa, và rất có thể sẽ phải triệt thoái sớm trong cuộc xung đột. Các phi công anh hùng thuộc binh chủng Hải quân đóng một vai trò quan trọng trong sách năm 2034, nhưng sẽ không có khả năng này nếu tình trạng lộn xộn thực sự bắt đầu. Người ta tưởng tượng kịch bản của cuốn sách sẽ diễn ra rất khác nếu Stavridis là một người chỉ huy tàu ngầm, không phải là nhóm tàu sân bay tấn công.

Tuy nhiên, điều này không làm mất đi tính cách hữu ích của tiểu thuyết. Ngoài các nhà hoạch định quân sự chuyên nghiệp, đơn giản là hiện nay không có nhiều suy nghĩ khó khăn về một cuộc chiến ở châu Á và tình trạng leo thang có thể diễn ra như thế nào. Trong Chiến tranh Lạnh, các Tổng thống Hoa Kỳ và bộ tham mưu dân sự của họ đã có những ý tưởng khá rõ ràng về việc mở rộng các răn đe, và có thể kéo lùi các nhà hoạch định quân sự, nếu kịch bản của họ dựa vào các tiền đề đáng ngờ. Tôi không đoan chắc đó là trường hợp cho hiện nay.

Nếu có một mục tiêu duy nhất cho chính sách đối ngoại của Mỹ nhằm vào châu Á, đó là ngăn chặn về một cuộc xung đột quân sự Mỹ-Trung xảy ra. Cách mà bạn làm điều này không phải bằng cách bỏ qua khả năng chiến tranh hoặc từ bỏ việc soạn thảo kế hoạch chống lại nó; thay vào đó, bạn cần hiểu chính xác điểm leo thang nằm ở đâu và làm thế nào để tự tạo các lựa chọn thay thế cho các lựa chọn quan trọng và phá hoại được mô tả trong sách năm 2034. Để đạt mục tiêu này, một công trình tưởng tượng theo lối tiểu thuyết có thể hữu ích hơn bất kỳ số lượng bài báo học thuật nào khác về chủ đề này.


Bài liên quan:

Điều gì có thể gây ra chiến tranh Mỹ-Trung?

Hồi phục và tương tranh của Mỹ và Trung Quốc

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi rất phục những người viết sách, in sách, nhất là những nhà văn định cư ở Hoa Kỳ. Mỗi lần cầm quyển sách trên tay, tôi rất cảm phục tác giả đã chịu khó viết văn. Khi tôi cầm quyển sách "Thiền Tập Với Pháp Ấn" của Cư sĩ, nhà văn Nguyên Giác, nhà xuất bản Ananda Viet Foundation, Tâm Diệu, một Phật tử đã học ở Cal State Fullerton, trình bày, điều đầu tiên tôi tự nhủ: hình bìa đẹp quá, màu sắc nổi bật, Phật đang ngồi thiền trên tòa sen...
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi / thấy tâm tịch lặng không người, không ta / ai hỏi thì nhấc cành hoa / thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …” (bài thơ “Như nắng tà huy” của Cư sĩ Nguyên Giác viết tặng “quý tôn túc Đỗ Hồng Ngọc, Trần Tuấn Mẫn, Nguyên Cẩn, và pháp huynh HT Minh Diệu Nguyễn Thế Đăng,”)
"Các bài viết nơi đây hầu hết là trích từ Kinh Phật, ghi lại trong nỗ lực hoằng pháp để rủ nhau tu học. Người viết không bao giờ tự nhận là giáo sư, giảng sư, thầy dạy hay bậc đàn anh trong đạo.Trong khi những chữ này được gõ lên nơi đây, chỉ là do duyên mà hiện lên. Người viết luôn nhớ lời Đức Phật dạy rằng không hề có ai đang gõ, cũng như chỉ có những dòng chữ đang được đọc, và không hề có ai đang đọc. Người viết luôn luôn viết trong trong tinh thần như thế, trong khi trích lời Phật và ý Tổ để chia sẻ, và để mời gọi nhau cùng bước sang bờ bên kia." Đó là Lời Thưa của tác giả Nguyên Giác về cuốn Thiền Tập Với Pháp Ấn.
Sách Thiền Tập với Pháp Ấn dày 460 trang gồm 27 chương do Ananda Viet Foundation ở California vừa xuất bản mà tác giả gửi biếu tôi bản đầu tiên. Đây là cuốn sách thứ bảy biên khảo về Thiền của cư sĩ Nguyên Giác...
Khi nhận được sách của tác giả Cù Mai Công gửi tặng, nhìn mấy hình trên bìa là một trời ký ức lại ùa về vì tôi đã được sinh ra và đã lớn lên ở vùng đất có tên Ngã ba Ông Tạ...
“Trọn Đời Yêu Thương” là tuyển tập gồm có 36 truyện ngắn, cũng là tập truyện thứ tư của nhà văn Duy Nhân. Như trong lời tựa, Duy Nhân đã nhắc nhở “cây có gốc mới nở cành xanh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu”. Tư tưởng này đã quán xuyến xuyên suốt 36 truyện ngắn của tập truyện Trọn Đời Yêu Thương...
Đọc Tập truyện và Tản văn “Chỉ có con đường đó mà thôi” của Tiểu Lục Thần Phong, do NXB Ananda Viet Foundation ấn hành cuối năm 2022)...
Năm tôi lên mười, O Xưa đã trên ba mươi. Ở con đường Nam Giao, thành phố Huế, từ đầu dốc tới cuối dốc, O Xưa đi lên đi xuống hằng ngày giống như một cái bóng, vì hình như O không sống với người. O Xưa sống với ma, người chồng ma của O vô hình, ở đâu đó, trên cây, trong cỏ, trên lá, trong vòm trời, trong bóng mây, O kể lể vậy. Có thể nhìn thấy O Xưa vào buổi sáng, vào giờ công chức đi làm, học sinh đi học và các bà nội trợ Huế ngồi xúm xít bên gánh bún bò ngon nổi tiếng của mụ Dục, bên gánh cơm Hến của mụ Khế, gánh bánh canh từ Nam Phổ của mụ Cau. Buổi trưa, lúc O Xưa đi từ trên con dốc xuống, đầu đội nón thì mấy bà nội trợ đang ngồi lê đôi mách với nhau ở cái quán tre đầu một con hẻm.
Nhà thơ/ nhà văn Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê) -- một tên tuổi không xa lạ trong giới yêu thơ văn Việt Nam, trong nước cũng như hải ngoại -- nhân đọc tập thơ mới xuất bản của nhà thơ nữ Nguyễn Thị Khánh Minh, Tháng năm là mộng đang đi, đã có vài cảm nhận ghi trong bài viết sau. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Bạn Thơ ơi, Với riêng tôi, Lục Bát thân thuộc như hơi thở. Cha mẹ tôi kể thường ru tôi ngủ bằng những câu thơ lục bát. Như thế thì chưa biết nói đã được nhạc Lục Bát ấp ưu trong từng hơi thở đầu đời. Cứ thế mà bén rễ, ăn sâu vào cảm thức, cho đến khi bật ra thành câu thuở chập chững làm thơ, xem như Lục Bát là miếng cơm mớm cho những câu thơ bắt đầu tập nhai tập nuốt. Rồi theo hoài. Rồi thành quen. Đến nỗi Lục Bát gần như một phản xạ của rung động tức thì. Rồi cùng mình lặn lội tháng ngày, nuôi lẫn nhau thêm cái trầm lắng của sự chiêm nghiệm có được theo thời gian.