Hôm nay,  

Đọc "Giọt Nước Nghiêng Mình" Của Nguyễn Văn Sâm

04/04/202117:26:00(Xem: 2454)
Giot Nuoc Nghieng Minh
Hình bìa của cuốn sách "Giọt Nước Nghiêng Mình" của Nguyễn Văn Sâm.



Lời Tựa


Khi thấy tựa đề cuốn sách là ‘Giọt Nước Nghiêng Mình’ tôi hơi lấy làm lạ, cho đây là một cách nói hiếm hoi, đồng thời lại thấy phảng phất quen thuộc. Cho đến khi giở đến truyện đầu tiên của cuốn sách, thấy hai câu thơ đề từ của Sơn Nam

Phong sương mấy độ qua đường phố, 
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê...

 

thì mới vỡ lẽ là tác giả đã mượn hai chữ nghiêng mình của Sơn Nam, thay hai chữ hạt bụi thành giọt nước. Đột nhiên tôi cảm thấy cái không khí ‘nam kỳ lục tỉnh’ bao phủ cả không gian quanh tôi.

Càng đọc những truyện trong sách, không khí ấy càng dày đặc. Độc giả sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi biết tác giả Nguyễn Văn Sâm chính là một người con ưu tú của đất Nam Kỳ, trước 1975 đã từng nghiên cứu sâu về văn học miền Nam, giảng dạy tại Đại học Văn khoa Sài Gòn và các đại học khác như Cần Thơ, Hòa Hảo, Cao Đài, Vạn Hạnh. Sau khi vượt biên đến Mỹ vào năm 1979, song song với việc nghiên cứu các tác phẩm Hán Nôm và dạy học, tác giả bắt đầu sáng tác văn học. Tập truyện ngắn Giọt Nước Nghiêng Mình mà độc giả đang cầm trên tay là cuốn sách thứ bảy trong thể loại này, vào thời điểm năm 2020.

Nam Kỳ là vùng đất mới nhất của Việt Nam. Từ khi đất nước giành được quyền tự chủ từ thế kỷ thứ 10, cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam dưới nhiều hình thức đã tiếp tục hầu như không ngưng nghỉ, và chỉ được coi như là hoàn tất sau khi bình định xong miền đất cực nam vào thế kỷ 18. Một điều kỳ diệu là sau khi hoàn tất cuộc Nam tiến trải nhiều thế kỷ và qua nhiều cuộc gặp gỡ và chung sống với các dân tộc khác nhau, ngôn ngữ trên các vùng đất mới của dân Việt vẫn là tiếng Việt. Khi nhà Nguyễn thống nhất xong đất nước vào đầu thế kỷ 19, ngôn ngữ Việt được dùng từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau.

Và đến giữa thế kỷ thứ 19, chính tại đất Nam Kỳ, Trương Vĩnh Ký đã là người đầu tiên viết văn Việt bằng chữ quốc ngữ, đặt nền móng cho nền văn học quốc ngữ đồ sộ của Việt Nam hiện nay cho cả ba miền Bắc Trung Nam.

Khi đọc bản thảo Giọt Nước Nghiêng Mình của Nguyễn Văn Sâm tôi thấy mình bồi hồi cảm động như đang được tắm lại trong một dòng sông cũ, nơi phát nguyên dòng văn chương hiện đại của Việt Nam. Chính từ chỗ phát nguyên này, trong thế kỷ 20 tôi đã đọc Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên…, họ cùng nhiều bậc tiền bối nữa đã làm thành nền văn học miền Nam với tính chất riêng của nó. Từ khi còn rất trẻ, tôi đã để ý trong tiểu thuyết hay truyện ngắn mà mình đã học và đã đọc, hầu như có hai khuynh hướng: miền Bắc và miền Trung viết theo “ngôn ngữ thống nhất” , riêng miền Nam viết theo kiểu miền Nam.  Mấy mươi năm sau Trương Vĩnh Ký các nhà văn miền Bắc mới bắt đầu sáng tác bằng chữ quốc ngữ, và với một thứ ngôn ngữ Việt Nam điêu luyện đã được trau dồi hàng mấy ngàn năm, họ đã nhanh chóng tạo ra những tác phẩm mượt mà được độc giả cả nước đón nhận. Trong khi “ngôn ngữ thống nhất” đó vẫn được dùng chung cho các nhà văn miền Bắc và miền Trung, hầu như nó đã dừng lại tại biên giới miền Nam. Nhà văn miền Trung viết theo phong cách miền Bắc, hầu như không bao giờ dùng thổ ngữ của miền mình trong tác phẩm, trừ một số ít những câu đối thoại. Nhưng các nhà văn miền Nam thì gần như tuyệt đối không bị ảnh hưởng đó, vì thật ra họ đã có một nền văn học riêng của họ, trước miền Bắc và miền Trung rất xa. Họ viết ngôn ngữ miền Nam một cách đầy tự tín, giữ sự độc lập đối với các tác phẩm miền Bắc miền Trung, vì thật ra chính các nhà văn miền Nam mới là những người khai sinh ra ngôn ngữ tiểu thuyết của Việt Nam.

Cho đến bây giờ, gần hai thế kỷ sau Trương Vĩnh Ký, tác phẩm mới nhất của Nguyễn Văn Sâm đã một lần nữa chứng tỏ sự độc lập đó của văn chương miền Nam. Giọt Nước Nghiêng Mình là một tập gồm 16 truyện ngắn, đây là sáng tác mới nhất của một nhà văn miền Nam mà tôi được đọc trong hiện tại. Hình thức và nội dung của cuốn truyện vẫn mang nặng tính cách ngôn ngữ và nếp văn hóa của miền Nam. Nếu những nhà văn miền Nam đi trước ông ghi lại những hồi ức thời dân Việt mới vào khai phá miền Nam, hoặc mô tả xã hội thời Pháp thuộc với những chủ điền và tá điền, những phong tục và sinh hoạt trong dân gian thời đó, rồi dần dần mới mẻ hơn trong thời Nam Kỳ đã trở về với chính quyền Việt Nam trong quãng giữa thế kỷ 20 trở về sau, thì đề tài sáng tác Nguyễn Văn Sâm vẫn vậy, vẫn gắn chặt với miền Nam, nhưng là một miền Nam của ngày hôm nay. Ông đã ghi rõ câu này trong một trang đầu của sách: “Những truyện ngắn viết trong khoảng 2013- 2020 từ những nỗi đau buồn của thời đại mà ai trong chúng ta cũng bị bắt buộc phải chứng kiến hoặc nghe nói hằng ngày.”

Về phương diện hình thức, cuốn Giọt Nước Nghiêng Mình có một ngôn ngữ “rất Nam Kỳ”, có khi còn nam kỳ hơn Bình Nguyên Lộc hay Sơn Nam. Ví dụ những cách dùng chữ: “ngừng một lúc hèn lâu, nuốt nước miếng; mích lòng mích bề; phủi phủi ông nội ơi đừng nói gở; tôi biệt biết; làm thinh thiệt là lâu”,

“Chà mầy đừng có lớ ngớ đứng ngoài vàm nữa nha, không múm vô vàm thì thiên hạ ẳm mất tiêu giờ”…

 

Những cách sử dụng ngôn ngữ rất địa phương như thế có thể khiến cho một số người miền Bắc hay miền Trung chưa từng tiếp xúc nhiều với miền Nam lấy làm khó hiểu. Tuy nhiên ngoài một số khẩu ngữ dùng trong văn một cách hồn nhiên, nói chung cách viết của tác giả cũng không quá cách xa với vùng ngoài.

Về nội dung, tôi nghĩ một số truyện mang tính cách luận đề, mượn câu chuyện để chuyên chở, phát biểu một biện giải triết lý hay tôn giáo. Ngoài ra là mô tả thực trạng nếp sống trong xã hội miền Nam Việt Nam trong những năm gần đây.

Giọt Nước Nghiêng Mình là truyện đầu tiên của cuốn sách, tên truyện được dùng làm tên sách. Truyện kể về một chuyến đi thăm chùa của một gia đình trên đất Mỹ. Giọt nước nghiêng mình là một hình ảnh khó hình dung một cách cụ thể, nhưng tác giả có vẻ tâm đắc với một ý nghĩa tượng trưng của nó, và dùng nhiều lần để diễn tả những khái niệm trừu tượng. Ví dụ lời lẽ của vị ni sư tu ở chùa:

Ni sư đưa tay lượm vài cánh bông rơi rụng trên bàn bỏ vô dĩa đựng tách trà, ngó thẳng vô mặt người khách nữ, nói như khuyên giải:

‘Tiểu bang nầy lắm mưa, nhiều khi một mình ngồi ngó mưa rơi, ni nghĩ rằng từng giọt mưa là từng linh hồn con người nghiêng mình rớt xuống để nhập làm một với Đại Ngã là sông, biển. Chết là giai đoạn hủy xác, hồn về lại nơi phát sinh. Chết sống chỉ là những giai đoạn du hành rong chơi của tiểu linh hồn.

Luận đề của truyện tiếp tục phát triển trong lúc gia đình, gồm một người cha với con gái và chàng rể, lái xe ra về. Trên xe, người con gái nêu một thắc mắc với cha mình:

 Con thấy ni sư thông tuệ. Nhưng sự so sánh sông biển với cái Đại Ngã ba thấy có đúng không?

Và từ câu hỏi đó câu chuyện trên xe giữa ba người trở nên hào hứng với những định nghĩa Đại Ngã khác nhau, nó có thể ví là đại dương, nó cũng có thể là hồn dân tộc, nền văn hóa của một sắc dân, hoặc là nguồn sống của một quốc gia. Để cuối cùng là:

Điều quan trọng là mọi giọt nước đều nghiêng mình để bơi về hợp với vùng nước lớn, cách nầy hay cách khác, trực tiếp hay gián tiếp.

Chuyến đi thăm chùa của gia đình ấy đã là một cái cớ cho một luận đề rộng lớn, với hình ảnh giọt nước như một tiểu ngã, nghiêng mình để nhập vào một vùng sông biển mênh mông có thể mệnh danh là đại ngã.

Phật giáo đã thấm đẫm trong đời sống của dân miền Nam theo một cách riêng. Khi những toán lưu dân di chuyển vào một vùng đất lạ trước mặt, ưu tiên của họ là ra sức khai phá vùng đất ấy để thành nơi định cư mới. Họ như những người tự do hoàn toàn, chưa có một định chế về hành chánh hay tôn giáo rõ rệt đi cùng họ để yểm trợ về việc tổ chức đời sống và sinh hoạt về tinh thần, tâm linh. Họ trôi giạt tự do, như Sơn Nam mô tả:

Tới Cà Mau - Rạch Giá
Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mù như sương
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương?

Trong hoàn cảnh bắt đầu từ số không như vậy, họ tự tạo lập mọi cái cho đời sống của mình, với cái vốn liếng mang theo từ đôi tay và khối óc, với một số ký ức về nguồn gốc một nền văn hóa cũ có thể khá mù mờ, ngoài ngôn ngữ là tiếng Việt mà họ đang dùng. Họ tự chiêm nghiệm một nếp sống tâm linh mới, và các ông đạo ra đời. Đó có thể là một số ít trí thức lạc lõng trong đám di dân, giữa hoàn cảnh hoàn toàn mới, tự suy ngẫm những nguyên tắc sống có đạo lý để giúp cho các cộng đồng mới mẻ ấy một nề nếp lành mạnh. Tôn giáo truyền thống của dân tộc là Phật Giáo cũng theo người di dân mà phát triển theo cung cách mới mẻ phi truyền thống.

Nguyễn Văn Sâm đã mở đầu cuốn sách bằng cuộc đi viếng chùa, và giáo lý đạo Phật lại được bàn đến trong một số truyện khác, như là nối dài của một truyền thống tâm linh của dân tộc, với giai đoạn mới mẻ nhất, là sự hình thành của miền Nam. Ông tiếp tục chủ đề ấy khi lý giải mô tả tâm trạng của một nhóm người trên chiếc tàu vượt biên:

“Sống chết cả tàu là do cộng nghiệp tất cả người trên tàu, không phải phước hay hung của một vài lời nói. Cộng nghiệp tức là tổng số phước trừ đi tổng số hung của từng người trên tàu. Trừ qua trừ lại còn nhiều phước thì cả đoàn thoát, còn nhiều hung thì họa tới cho cả đoàn…”

Hương Vị Đời là một câu chuyện tình. Tôi thích truyện này vì tính chất dễ thương của đôi trai gái miền quê, mối tình chớm nở khi họ vừa đến tuổi thiếu niên vào khoảng đầu thập niên 1950, nhưng lại tan vỡ khi người con gái bỏ nhà vào bưng theo kháng chiến chống Pháp. Với lối văn hồn nhiên một cách mộc mạc tác giả đã khiến chúng ta yêu thích mối tình ấy, buồn vì sự gãy đổ bất ngờ của nó, và chấm hết khi người thiếu niên năm nào đã thành một người già đi xe lăn, qua đời trong một nhà dưỡng lão tại Hoa Kỳ. Những yếu tố rất Nam kỳ từ mối tình chơn chất của đôi trẻ, từ khung cảnh sống đến ngôn ngữ đã được tác giả khắc sâu trong từng tình tiết, làm thành sức quyến rũ của truyện.

Truyện Ông Đạo Chuối cũng là một truyện chuyên chở nhiều tư tưởng Phật giáo. Cốt truyện từ thời Pháp thuộc, xảy ra trong dãy núi Thất Sơn, nhưng câu chuyện có màu sắc lịch sử ấy chỉ là cái khung để tác giả luận về chủ đề đạo Phật. Hình ảnh và tên gọi Ông Đạo Chuối vọng lại một cung cách tu hành của một thời đã xa trong vùng đất mới của Nam Kỳ, thời của những “Ông Đạo”, hình ảnh một tu sĩ độc lập không thuộc một hệ thống giáo hội nào, đóng vai trò hướng dẫn mối đạo cho một số quần chúng quanh họ.

Tác giả đã cho chúng ta chân dung của một Ông Đạo, hình ảnh độc đáo của một thời xưa:

‘Chuối xứ của sư phụ trồng được đất quá, coi ngon ớn. Đó chắc là thứ chuối danh tiếng của xứ nầy nên người ta mới kêu là chuối xứ, xứ Thất Sơn vùng mình.’

Chính Ông Đạo Chuối đã đính chính cách gọi “chuối xứ” của một đệ tử thành từ ngữ đúng là “chuối sứ”:

Ông Đạo Chuối mỉn cười thân thiện, nhẹ nhàng:

“Ờ… ờ… thì cây trái bông huê thơm ngon mới được quí chuộng. Xưa những thổ sản quí người Xiêm La đem cống sứ cho vua Đại Nam Quốc nên chúng ta ngày nay mới có chuối sứ, bông sứ. Nhiều khi người ta kêu rõ ràng hơn bằng chữ xiêm như chuối xiêm, dừa xiêm, mãng cầu xiêm, vịt xiêm, tre xiêm…… Nói chung, những thứ sứ, thứ xiêm mới có ở xứ ta chừng một trăm năm nay thôi. Hồi trước bà nội của sư nói những thứ đó rất quí, đã ít có mà lại ngon. Mà nói về chuối thì mé sau vườn sư trồng ối thôi đủ thứ: nào là chuối cau, chuối cơm, chuối lá trắng, chuối lá đen, chuối hột, chuối ngà, chuối và tiên, chuối mật, chuối và lùn, chuối sen, chuối nanh heo… chỉ có chuối nước là sư chưa kiếm được giống. Vùng Thất Sơn mình núi non, đá nhiều, ít sông rạch nên chuối nước rất hiếm”.

Có thể nói Nguyễn Văn Sâm là một nhà văn của tư tưởng. Đọc ông đôi khi chúng ta có cảm tưởng truyện chỉ là một cái cớ để trình bày một triết lý, một suy nghĩ mà ông cưu mang và muốn truyền lại cho chúng ta. Ngoài triết thuyết nhà Phật, ông có nhiều suy tư về cuộc sống, đặc biệt liên quan đến xã hội Việt Nam hiện tại. Truyện của ông không mang kỹ thuật của lối viết truyện ngắn thông thường, mà giống như là một số chương trích ra từ một truyện dài, trong đó có những đoạn luận thuyết về một tư tưởng nào đó. Nắm bắt được những tư tưởng ấy, người đọc sẽ thấy mình trở nên phong phú hơn, thâm trầm hơn.

Đọc truyện Hoa Nhân Sinh chẳng hạn, chúng ta không hiểu tình hình các nhân vật thật sự liên hệ với nhau như thế nào, nhưng người đọc được thưởng thức những đoạn triết luận để hiểu thế nào là Hoa Nhân Sinh, theo tác giả. Người mẹ suy nghĩ về nguyên tắc dạy dỗ con mình:

“Có lo ngại cho tương lai bé nếu bé sống bằng tâm hồn nhân thiện trong xã hội nầy thiệt tình nhưng còn hơn để nó vô cảm, suy nghĩ trên những lợi lộc cực gần trước mắt, nhỏ mọn đến bần tiện vốn là điều tôi cho rằng kéo giá trị con người xuống thấp hèn dầu cho giàu có, quyền thế tới bực nào”.

Hoặc lời giảng của vị sư:

“Ta hãy coi thế giới nầy như một khu vườn bao la vô cùng tận mà mỗi con người, mỗi con vật, mỗi gốc cây, hòn đá, thậm chí một cụm mây trời hay một cơn gió thổi đều là một đóa Hoa Nhân Sinh có ý thức. Tất cả đều sản xuất hoa trái cho đời cách nầy hay cách khác. Với thuận duyên thì hoa cho quả tốt, tạo nên con người lương thiện hoặc thú vật hiền từ. Nghịch duyên thì cho quả sâu, úng thúi, thiên tai gió bão hay sanh ra con người tật nguyền, ác độc, vô cảm, nghĩa là một cái trái, cái quả có hại cho hoa trái chung quanh, cho đời nói chung.”

Câu chuyện còn kéo dài, cho đến khi tác giả để lộ ý của mình về Hoa Nhân Sinh như một nhận xét lên án chế độ đang cai trị đất nước và con người Việt Nam hiện nay. Tôi có cảm tưởng cả câu chuyện này là cốt để dẫn tới một nhận định mà tác giả muốn gửi gắm một cách thâm tình đến người đọc:

“Còn tôi hợp ý với bài học mới vừa thủ đắc nên mang thêm một nỗi xót xa nặng nề khi nghĩ tới Hoa Nhân Sinh của xã hội hiện nay tạo được chẳng bao nhiêu hoa thơm quả đẹp nhưng hoa thúi, quả sâu được mùa nở rộ khiến cho miền địa đàng của ông cha tạo dựng bao năm nay đương trên đường sa đà, tuột dốc. Và mình thì cằn cỗi cái tâm do phản ứng vô cảm để được yên thân làm hóa mộc rồi hóa thạch từng ngày từng ngày một cái tâm trong sáng một thời của mình.” 

Tác giả đã có một số truyện mô tả thực trạng của xã hội Việt Nam, như nhằm minh chứng miền địa đàng của văn hóa truyền thống Việt Nam “đương trên đường sa đà, tuột dốc”. Toàn những hình ảnh không vui.

Nhưng truyện rất độc đáo trong sách này có lẽ là một câu chuyện giả tưởng, “Người Hát Rong Trên Bờ Biển Đặc Khu”. Đó là năm 2048, câu chuyện xảy ra trên bờ biển Rạch Giá khi đất nước Việt Nam đã thoát khỏi chế độ cộng sản được 5 năm, và Phú Quốc vẫn đang là đặc khu của Tàu. Người hát rong đã có thể hát những câu ôn lại lịch sử, như:

 

Nếu ngày ấy bến Nhà Rồng đóng cửa,

Người lang thang quay lại Nghệ An.

Làm giáo làng hay một chân thư lại,

Thì ngày nay dân đã thoát lầm than.

 

Nếu ngày ấy sông Sàigòn nổi sóng,

Người đang leo bỗng rớt mẹ xuống sông.

Bầy sấu đói đã reo mừng rước bác,

Thì ngày sau đâu xương trắng cánh đồng!

Khán giả của Người Hát Rong vỗ tay khen ngợi nhiệt tình, chứng tỏ đất nước đã thoát nạn độc tài, nhưng những rơi rớt của chế độ cũ vẫn còn rất gần gũi với họ, đó là đảo Phú Quốc bấy giờ vẫn đang là một “đặc khu” của người Tàu. Vẫn còn cảnh “vượt biên” của người dân Phú Quốc chạy vào tị nạn trong đất liền…

Cuối truyện, tác giả mới cho biết đây chỉ là một giấc chiêm bao của một người đang nằm trong nhà tù của cộng sản Việt Nam. Nhưng phải chăng tác giả đã mượn  một giấc mơ khi ngủ để tạo thành một giấc mơ thức, một ước ao, một giả định, một tiên tri rằng chế độ cộng sản sẽ chấm dứt tại đất nước chúng ta vào năm 2043 ?

“Nếu ngày ấy”… người hát rong đã mấy lần lặp lại ba chữ ấy. Chúng ta đồng ý với nhau là lịch sử không có chữ NẾU. Cái gì xảy ra là nó xảy ra, như là kết quả của bao nhiêu sự kiện, điều kiện, biến cố của một thời. Nhưng riêng về mặt văn học và tư tưởng của Việt Nam, NẾU như không có sự tồn tại của hai mươi năm Miền Nam 1954 – 1975 thì sẽ là một đại họa, không khác gì cái họa nhà Minh sang chiếm nước ta thời Hồ Quý Ly, với một chương trình đồng hóa tàn khốc và triệt để hầu biến nước Việt thành một quận hạt của Tàu. Tịch thu sạch, đốt sạch sách vở, văn tự, tất cả những gì đã làm nên đời sống văn hóa của Việt Nam từ thời lập quốc. Khi làm chủ được nửa nước ở phía Bắc vào năm 1954, phe cộng sản đã làm y hệt như thế với nền văn học cũ. Đốt hết sách, xóa sạch dấu vết của nền văn chương chữ quốc ngữ đã tồn tại một thế kỷ qua, để chỉ còn lại một nền văn chương theo đường lối của cộng sản. Trước tai họa ấy của đất nước, Miền Nam đã phát triển một nền văn học nghệ thuật không những nâng niu tôn trọng các di sản đã qua mà còn mở rộng chân trời sáng tạo. Tất cả tác phẩm giá trị của quá khứ đã được gìn giữ, phổ biến và đưa vào chương trình học, dù là tác giả ở bên này hay bên kia vĩ tuyến 17. Chính nhờ sự phát triển này, biết bao giá trị được cứu vớt cho đất nước và dân tộc, dù là cuộc càn chiếm miền Nam thành công của cộng sản vào năm 1975 cũng đã nhóm lên ngọn lửa phần thư khốc liệt khắp miền Nam.

Và dân tộc Việt Nam đã chứng kiến một điều kỳ diệu: Miền Nam chính là nơi nền văn học chữ quốc ngữ ra đời, và cũng chính nơi này đã cứu chuộc nền văn học ấy cho dân tộc trước cuộc xâm lăng của loại chủ nghĩa mang về từ Nga từ Tàu luôn luôn muốn tiêu diệt những tinh hoa của văn hóa dân tộc chúng ta.

 

*

 

Thông thường, những người theo con đường nghiên cứu, học thuật thì hầu như ít ai sáng tác văn chương. Trường hợp nhà văn Nguyễn Văn Sâm là rất hiếm hoi. Trước 1975 ông dạy tại các đại học miền Nam, viết các tác phẩm nghiên cứu về văn học. Chỉ sau khi vượt biên qua Mỹ ông mới bắt đầu xuất bản sách truyện từ khoảng đầu thập niên 1980, và từ đó về sau chứng tỏ một năng lực sáng tác mạnh và đều đặn. Một số truyện của ông mang tính chất luận đề, điều đó không khó hiểu bởi vì ông là người nghiên cứu uyên thâm về nhiều vấn đề văn hóa. Dùng văn chương để chuyển tải triết lý là một nghệ thuật của riêng ông, truyện vẫn tươi tắn, tư tưởng vẫn được giới thiệu một cách đầy đủ và dễ hiểu.

Văn chương quốc ngữ bắt nguồn từ miền Nam từ giữa thế kỷ 19, đã được nuôi dưỡng và trưởng thành khắp nước trong thế kỷ 20. Nay tại hải ngoại, cây bút Nguyễn Văn Sâm đang tiếp tục phát triển truyền thống miền Nam ấy, theo đúng tuyên ngôn của Nguyễn Đình Chiểu từ gần hai trăm năm trước:

                                   Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm

                                   Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

 

Little Saigon, 30 tháng Mười, 2020

Phạm Phú Minh

 

 

Liên lạc với tác giả Nguyễn Văn Sâm

samnguyen20002002@yahoo.com

714 332 9086

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẩu đối thoại trên là của chàng thanh niên 27 tuổi là Ralph White với nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ trong những ngày cuối tháng Tư năm 1975 của miền Nam Việt Nam trong cuốn hồi ký Thoát Khỏi Sài Gòn (Getting Out of Saigon) của ông vừa được nhà xuất bản Simon and Schuster phát hành...
Hai mươi lăm truyện trong tập sách, ngoài những mảnh đời oái oăm của thế thái nhân tình trong đời sống xã hội hiện tại. Bạn và tôi còn đọc được những câu chuyện thú vị như: Vong Hồn Trên Sông, Đứa Con Phù Thủy, Đôi Mắt Tiền Kiếp, Hẹn Hò… Những câu chuyện có tính cách hoang đường, ma mị, xảy ra ở một quận lỵ heo hút nào đó của tỉnh Quảng Trị, nơi tác giả sinh ra và đã có một thời thơ ấu êm đềm...
Trust (tạm dịch là Niềm Tin) là cuốn sách thứ hai, đoạt giải Putlizer 2023, thuật lại những khúc mắc của chủ nghĩa tư bản thời hiện đại. Mở đầu bằng sự việc dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, sau những đợt bùng nổ và sụp đổ của lịch sử kinh tế từ quan điểm của từng cá nhân. Trust là một tác phẩm hiện đại táo bạo — trong suốt bốn màn, mỗi màn được đóng khung như một “cuốn sách” — tìm cách phá bỏ những quy ước chắc nịch làm nền tảng cho những huyền thoại về sức mạnh của nước Mỹ.
Tôi đưa quyển sách cho con trai, nói con đọc đi. Nó đọc một hai truyện gì đó, rồi nói, ngôn ngữ cũ mèm má ơi. Có vài chỗ khó hiểu nữa. Phải, ngôn ngữ “cũ mèm”, và có vài chỗ “khó hiểu” nữa, ngay cả với tôi. Con tôi thuộc thế hệ của Doraemon rồi Harry Potter. Tôi thuộc thế hệ của Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, của những truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc trên tạp chí Hương Quê một thời xa lơ xa lắc có lẽ đã trên dưới 60 năm. Cho nên tôi đã miệt mài “ôm” quyển sách trong nhiều ngày liên tục, rảnh được lúc nào là đọc, không theo thói quen con-cà-con-kê của mình...
Tôi chẳng nhớ là mình đã đi vào Thiền tự bao giờ, chỉ biết rằng những ý tưởng nhuốm màu Thiền đã nhật tích nguyệt lũy thấm dần vào tôi như những giọt nước rơi liên tục làm lõm phiến đá. // I cannot recall when I entered Zen Buddhism. I only know that, like drops of water persistently indenting a stone, Zen-like thoughts have been seeping into my mind day by day and month by month.
Tác giả là Ben Kiernan, sinh năm 1953, từng là Giáo sư “Sử học và Các Môn Học Quốc tế và Vùng” tại Đại học Yale nổi tiếng. Ông từng lập ra Chương trình về Diệt Chủng Cambodia và Chương Trình Nghiên Cứu Về Diệt Chủng. Sách của ông trước đây bàn về diệt chủng ở Cambodia cũng như trong những giai đoạn khác của lịch sử loài người
Chúng ta phần lớn từng học sử theo niên đại với nhiều chi tiết tên tuổi cần phải nhớ để đi thi, hay đọc sử nước nhà qua lăng kính của một người công dân gắn bó với quê hương và di sản tổ tiên để lại. Tác giả Goscha là một nhà khoa bảng chuyên về sử học từng được một giáo sư sử học quốc tế nổi tiếng người Việt (từng là giáo sư của Miền Nam Việt Nam) hướng dẫn, và từng huấn luyện và khảo cứu ở nhiều nước liên hệ đến Việt Nam (Pháp, Mỹ, Canada, Úc, Thái Lan). Được một chuyên gia tầm cỡ như thế trình bày những câu chuyện về đất nước, ông bà của của chính chúng ta qua lăng kính đặc biệt của một người ngoại cuộc giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn, và không kém phần thú vị về một đề tài tuy cũ nhưng vẫn còn nhiều điều mới mẻ.
Tuy nhiên, cuốn “Sống Với ‘Thán Dị Sao’ Của Ngài Thân Loan” còn có một phần rất đặc biệt mà chính phần này làm cho tôi thật sự thích thú. Đó là bản dịch tiếng Việt do HT Thích Như Điển thực hiện với đầy đủ 18 chương của cuốn “Thán Dị Sao” từ bản tiếng Nhật hiện đại của Giáo Sư Yamazaki Ryuumyou.
Tóm lại, A History of the Vietnamese là một cuốn sách rất công phu, chi tiết về lịch sử Việt Nam, chú trọng về văn hóa và xã hội, do một Giáo sư Sử học và Việt học người Mỹ từng huấn luyện nhiều sử gia Mỹ về chuyên ngành Việt Nam. Người quen đọc (hay học) sử tiếng Việt theo truyền thống chủ nghĩa dân tộc, hay người từng dùng chủ nghĩa dân tộc như một khí cụ chính trị có thể không đồng ý về một số kết luận, ví dụ về nguồn gốc tiếng Việt hiện đại hay về sự hiện hữu hay không của một "quốc hồn, quốc tính" Việt Nam. Tuy nhiên, đọc một cuốn sử dùng các sử liệu mới nhất và phân tích theo chiều hướng khoa học sử và chính trị hiện đại, người viết bài này cảm thấy biết ơn một nhà học giả ngoại quốc đã đem bao nhiêu thời giờ và tâm huyết để tạo nên một công trình đồ sộ như vậy, chưa từng có trong Anh văn. Ước mong một bản dịch tiếng Việt với đối chiếu các danh từ Anh-Việt và Hán sẽ xuất hiện một ngày nào đó không xa.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.