Hôm nay,  

Suối Nguồn Tâm Thức, Tuyển Tập Thơ Thái Tú Hạp

02/09/202011:59:00(Xem: 2949)

Tháng 11 năm 1990, từ miền Đông Hoa Kỳ về Nam California nắng ấm, anh chị Thái Tú Hạp - Ái Cầm ghé thăm và tặng mấy món quà, trong đó có tập thơ Miền Yêu Dấu Phương Đông. Anh chia sẻ, bây giờ xa cố hương, nơi chốn mịt mù… khi nào nhớ thì đọc. Vài tuần sau tôi viết cảm nghĩ về tập thơ nầy: Thái Tú Hạp & Miền Yêu Dấu Phương Đông cho tờ Saigon Times của anh. Lúc đó còn chân ướt chân ráo, chưa có phương tiện nên viết trên giấy, gởi về tòa soạn.

Đúng 15 năm sau, cảm nhận từ những bài thơ với Quê Hương & Người Tình, vài tập thơ khác đã ấn hành, nhiều bạn văn đã viết rất chân tình. Với tôi, cùng nơi chốn ở phố cổ Hội An nên khi đọc thơ anh đã “dẫn dắt” tôi trở về cố hương từ dòng sông, con đường, góc phố, mái trường… với bao kỷ niệm của thuở học trò. Tôi viết: Thái Tú Hạp, Quê Hương & Ngôn Từ vào năm 2005 (bài vết nầy còn lưu trên trang web Saigon Times USA).

blank


Ngoài những bài về văn học nghệ thuật, viết về bạn bẻ, thân hữu… cho tờ Saigon Times, tôi không viết về thơ văn của anh bởi đã quá nhiều cây bút xa, gần đề cập đến tác phẩm mới vừa ấn hành.

Và, lần nầy, đúng 15 năm, nhận được tuyển tập thơ Suối Nguồn Tâm Thức của anh, nhà xuất bản Sông Thu ấn hành vào tháng 9 năm 2019, nhưng lúc đó anh bị bệnh tim phải giải phẫu nên sau khi được hồi phục mởi gởi tặng thân hữu. Với tôi, tuyển tập thơ nầy như “đứa con tinh thần” mang nhiều ý nghĩa: kỷ niệm nhà thơ ở tuổi 80, tình nghĩa vợ chồng và 60 năm góp mặt trên thi đàn Việt Nam từ trong nước đến hải ngoại.

Hơn nữa, theo lời anh, cô em gái ở Việt Nam góp nhặt những trang báo cũ của các tạp chí Văn Học xuất bản ở ở Sài Gòn có in thơ anh cất dấu trong các ngăn sách mối nhấm lâu năm gởi qua nên mới tìm lại những bài thơ kỷ niệm. Tuy nhiên cũng có một số bị hư hỏng phai nhòa qua thời gian nên không hoàn chỉnh như ý nguyên bản.

Nhà thơ Trần Hoài Thư là người bỏ nhiều công sức để thực hiện “Di Sản Văn Hóa Miền Nam VN” đã sưu tập được một số bài trơ của anh Thái Tú Hạp trong các tạp chí văn nghệ ở thư viện tại đại học Cornell đẻ phổ biến trên Thư Quán Bảo Thảo và đăng trên tuyển tập nầy.

Tuy sống trong thời chinh chiến nhưng hầu như anh em chúng tôi đều có “tủ sách gia đình”, sau 30/4/1975 bị đi tù, thân nhân ở nhà hoảng sợ nên đốt đi vì nếu lưu giữ, khi bị khám xét nhà sẽ kết tội “tàng trữ văn hóa đồi trụy”! Đó là thảm kịch như thời Tần Thủy Hoàng. 

Tuyển tập thơ Suối Nguồn Tâm Thức (SNTT) dày 738 trang, hơn 250 bài thơ, 33 bài thơ dịch sang Anh ngữ (Phan Tấn Hải, Thanh Thanh, Nguyễn Hữu Lý), 6 bài viết của thân hữu & 10 trang hình ảnh gia đình. Trong tuyển tập tập thiếu những bài thơ của anh được nhiều nhạc sĩ phổ thành ca khúc, nếu in vào cũng khoảng 800 trang, lưu niệm tuổi 80.

Từ bài thơ đầu tiên Mùa Xuân Trên Quê hương đến bài thơ cuối cùng Chuyển Hóa Tâm Từ Ái… ý thơ trang trải qua dòng thời gian.

Trong thời chinh chiến, các nhà thơ miền Trung như Luân Hoán, Triều Hoa Đại, Trần Hoài Thư, Phan Nhự Thức… khi khoác áo chiến y đã sáng tác nhiều bài thơ về lính. Nhà thơ Thái Tú Hạp cũng đề cập đến nhưng với hình ảnh khác về quê hương, mẹ và người tình:

“Rồi ngày mai các anh về đơn vị

Mỗi cánh chim mang nhung nhớ phương trời

Em ở lại già nua đời phố cũ

Bầy tương tư muôn cọi vấn vương đời

… Anh về đâu miền Tây nao nức nhớ

Sớm Hậu Giang chiều Đồng Tháp Cà Mau

Tiếng quân reo dậy đôi bờ Sông Cửu

Tin khải hoàn chuyển lửa ấm tình nhau”

(Xin Lời Mang Tuổi Mộng)

“Tôi đi giữa làng quê Việt Nam

Hơi thở ngát thơm hương lúa mới

… Mai quân về giữa thủ đô

Đèn hoa thắp sáng đôi bờ yêu thương

Chừ thôi nhắc chuyện lên đường

Tóc mây em khép mười phương tang bồng”.

(Hẹn Em Ngày Trở Về)

“Ngày lên đường luyến lưu bao nỗi nhớ

Những đồi trăng hư ảo mộng mơ xưa

Đêm tỏ tình giữa trời cao chứng giám

Nghìn thu sau mộng ước vẫn chưa phai

… Mai anh đi chắc em buồn tuổi dại

Rồi bướm hoa ai dệt mấy vần thơ

Cho em thẹn như ngày vừa mới lớn

Bàn tay ngà che nửa miệng ngây thơ”.

Bài thơ Ước Mơ Của Người Lính Trẻ trong thời chinh chiến với tâm hồn nhân bản mong ước mới và lạ nào là “Khi vũ khí… thành lưỡi cuốc lưỡi cày. Khi viên đạn… trở thành bình hoa trong phòng khách. Khi giao thông hào biến thành con kinh… Khi ngọn hỏa châu thắp sáng như ngân hà… 

Thực thà kể chuyện đoàn viên

Người lính mơ ước thanh bình hạnh ngộ”

Thế nhưng ước mơ đó ngược lại quá phũ phàng với hình ảnh:

“Giấc mơ xưa đã điêu tàn

Nghe da diết nhớ lòng mênh mông buồn

… Đến rồi đi cũng trắng tay

Kiếp phù sinh đó vơi đầy nỗi đau”.

(Nỗi Buồn Mai Sau)

Giữa anh và chúng ta trong cơn binh lửa, hình ảnh người mẹ cao cả, bao la, thương yêu, lúc nào cũng mang nỗi buồn, lo lắng cho con. Và, tâm trạng của nhà thơ cũng là tâm trạng chung:

“Mẹ u hoài vì đàn con đôi ngã

Chiều chiến tranh âm ỷ cháy trong tim

Giọng u sầu hiu hắt nỗi oan khiên

… Mẹ chua xót mang niềm đau thế kỷ

Nỗi buồn cao như núi cả sông dài

Hồn như mây theo con ngoài vạn lý

Nhớ thương hoài dòng tóc đẫm sương phai”

(Lòng Mẹ)

Với người tình, trong Chinh Phụ Ngâm: Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ... Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây” hình ảnh nầy thấp thoáng trong những dòng thơ:

“Từ buổi ngựa hồng anh rong ruổi

Em vẫn đợi chờ sau liếp mây

Từng nắng chiều qua khung cửa nhớ

Núi sầu xa mãi bóng chim bay”

(Ngoài Chân Mây)

Đọc bài thơ nầy chợt nhớ đến bài Mòn Mỏi của Thanh Tịnh với hình ảnh bi thương:

“Có bóng tình quân muôn dặm ruổi

Ngựa hồng tuôn bụi cõi xa mơ

… - Ngựa hồng đã đến bên hiên,

Chị ơi, trên ngựa chiếc yên... vắng người!”

Trang 79 trong tuyển tập thơ Suối Nguồn Tâm Thức trích đăng lần lượt với 2 thi phẩm Chim Quyên Lạc Ngàn (1982) và Miền Yêu Dấu Phương Đông (1987).

Trang 585, bài viết của nhà báo Bùi Bảo Trúc đề cập đến 2 thi phẩm nầy với dòng kết “Miền Yêu Dấu Phương Đông với ngôn ngữ ân cần của lục bát và cảm động của bảy chữ là mọt tập thơ đáng yêu như phương đông yêu dấu của ông”.

Nhà thơ tự ví mình như chim quyên mà hình ảnh đó, thi hào Nguyễn Du đề cập “Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên”, theo truyền thuyết, hồn Thục Đế An Dương Vương khi con gái Mỵ Châu bị lừa, trao nỏ thần cho chồng là Trọng Thủy nên phải thua trận, An Dương Vương và nhảy xuống biển tự tử. Vì nhớ nước nên hóa thành Đỗ Quyên, chim Cuốc, chim Quốc ngày đêm kêu lên những tiếng não ruột. Theo điển tích của Trung Hoa thì Thục Đế là vua nước Thục tên Đỗ Vũ bị bầy tôi dấy binh làm phản, Thục Đế thất bại, mất ngôi, chạy trốn vào rừng, khổ sở, nhớ ngai vàng, nhớ nước, Thục Đế chết hoá thành chim Đỗ Quyên ngày đêm kêu "cuốc cuốc” hay “quốc quốc”.   
     

Trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, có câu:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Đứng trước thành Cổ Loa, xưa kia là cung miếu của vua Thục An Dương Vương, nhà thơ Chu Mạnh Trinh cảm nhận cảnh điêu tàn quạnh quẽ dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng cuốc khắc khoải trong đêm khuya vọng lên buồn bã:

“Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu

Đỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm”

(Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt

Trăng mở khắc khoải cuốc kêu thâu)

Nhà thơ Yên Đổ Nguyễn Khuyến bày tỏ nỗi niềm của người dân yêu nước bị ngoại bang xâm lược: 

“Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ

Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ

Năm canh máu chảy đêm hè vắng

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ”

Những dòng thơ của anh Thái Tú Hạp tiếp nối tâm trạng, nỗi bi thương, thống hận như các bậc tiền nhân khi mất quê hương đành lưu lạc xứ người.

Trang 245 với thi phẩm Hạt Bụi Nào Bay Qua. Những dòng thơ của anh đã thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo. Theo lời tâm tình của nhà thơ: “Thời trung học nhà tôi gần ngôi Chùa cổ Hội An. Tôi thích cái không khí tĩnh mịch, yên lặng, nên hay rủ bạn bè vào chùa ngủ những đêm trăng sáng. Tiếng chuông khua trong  chiều cô liêu, sân chùa thoảng mùi hương ngọc lan, mùi trầm hương từ  chánh điện. Tôi cảm thấy tâm hồn  an bình êm ả vô cùng, lòng yêu thương như giòng sông Thu tỏa rộng hòa nhập với đại dương. Nhờ thời  gian lui tới nơi chốn thanh tịnh đó, tôi đã biết yêu thơ của các thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Mãn Giác, Ngộ Ấn, Hương Hải, Không Lộ... biết những tên tuổi lừng lẫy của  Đường Thi qua những tài danh lỗi  lạc như Lý Bạch, Thôi Hiệu, Vương Duy, Lý Thương An, Đỗ Phủ... mới biết thế giới của André Gide, Hemingway, Kafka, Jean Paul Sartre, Nietzsche, Heidegger... cho dù tôi  chỉ mới đứng ở bờ mé  của biển học mênh mông tuyệt vời  đó... và đang chỉ là hạt cát ngu dốt trên bờ sông Hằng.

Tôi đã vô hình chung thẩm thấu ít nhiều hơi thở của tư tưởng Phật Giáo thế là tôi thầm lắng đi vào cõi thơ lãng đãng những mùi trầm hương và những đóa hoa sen giữa nguyệt hồ. Càng trải qua những biển dâu tang điền, tuổi càng ngất ngưỡng ở cửa tri thiên mệnh, tôi càng chiêm nghiệm lẽ vô thường, mọi hiện hữu đều sinh diệt như những ảo ảnh không thật, như huyễn hóa, như bọt  sóng, như sương trên cành. Và tôi hiểu chỉ có con đường trở vào cõi tâm mới là nơi chốn an bình. Đích thực là thế giới thanh tịnh của Chân Như…”.

Giáo sư Vũ Ký (1922-2008) gốc Quảng Nam, dạy học từ Hà Nội năm 1943, Quốc Học Huế, Petrus Ký Sài Gòn… nhà văn, nhà biên khảo, nhà phê bình văn học. Sau 30/4/1975, GS bị bắt giam tại Sài Gòn và ở cùng trại tù với anh Thái Tú Hạp tại Tiên Lãnh, Quảng Nam. Khi định cư tại Bỉ, GS Vũ Ký được mời làm Giám Khảo Viện Tú Tài Quốc Tế tại Genève (Thụy Sĩ), Viện Đại Học Southamotom và Đại Học Bath ở Anh Quốc.

Trong bài viết của GS Vũ Ký giới thiệu về thi phẩm Hạt Bụi Nào bay Qua trang 689 đã dẫn chứng khá dài với đoạn kết: “Suốt tập thơ của Thái Tú Hạp là một đóa tâm tư vương rất nhiều ánh sáng hoàng hôn đầy những ngổn ngang hoài niệm với cung điệu xa vắng thuở nào, pha chút ít đó đây kỳ vọng mơ hồ của ản ảnh để gọi là sắc bình minh nở trên miền đất lạ…”.

Luân Hoán & Thái Tú Hạp là bạn học từ thập niên 50 ở phố cổ Hội An, hai nhà thơ nầy như có “duyên” với nhau từ thuở học trò, thời quân ngũ và bốn thập niên ở hải ngoại. Trang 606, bài viết của nhà thơ Luân Hoán: Thái Tú Hạp, Hạt Bụi Nào Bay Qua. Trong bài viết nầy anh Luân Hoán viết về chân dung người bạn, tình yêu với chị Ái Cầm và trích dẫn những tác giả viết về anh Thái Tú Hạp. Tôi thấy cũng đủ nên không đề cập đến các bài viết khác.

Là Phật Tử thuần thành từ nhỏ, học triết học Đông Phương và sau nầy tìm hiểu triết lý trong Phật Giáo nên khi đọc thi phẩm Hạt Bụi Nào Bay Qua, cảm nhận được vi diệu trong nhân sinh quan mà anh Thái Tú Hạp đã “ngộ” được nên trang trải trong ý thơ.

“Mây huyễn hoặc cõi phương đông

Hạt kinh khuya rớt xuống dòng tịch liên”

(Màu Hoa Tự Tại)

“Nhất quán rồi – mộng mai sau

Tâm vô lượng mở - có nhau luân hồi”

(Luân Hồi Có Nhau)

“Cái vô lượng nhập với đời

Cái trong chánh niệm với trời vô chung

… Tâm hoài niệm vũ trụ ngoài

Cõi thiên đường đó miệt mài yêu nhau”

(Trong Tùng Sát Na Tâm)

“Ta về cổ tự nghe kinh

Suối mây chim hót trên cành tĩnh tâm

… Bụi nào xóa sắc sắc không

Nghe chuông đại nguyện hóa thân chim trời”

(Thắm Tờ Kim Cang)

“Thời gian miên viễn vô cùng tận

Lòng ta nguyên thủy với núi sông

Lên cao cảm thọ đời hư huyễn

Định mệnh đôi bờ sắc với không”

(Đôi Bờ Sắc Không)

“Sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong kinh Bát Nhã, nói lên lẽ vô thường, vạn vật cứ thế biến đổi tuần hoàn trong vòng sinh tử luân hồi… Bản dịch của ngài Huyền Trang được chuyển sang Hán Việt để trì tụng hằng ngày: “Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị...” (Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế…). Với Ngũ Uẩn:

Sắc uẩn, bao gồm bốn yếu tố địa đại (chất rắn), thủy đại (chất lỏng), hỏa đại (nhiệt độ) và phong đại (chất khí) hình thành nên cơ thể sinh vật lý của con người và thế giới vật chất bên ngoài con người, trong đó có các đối tượng tiếp xúc của các giác quan. Thọ uẩn là những cảm giác, cảm nhận phát sinh do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân tiếp… Tưởng uẩn là những tri giác, suy nghiệm về sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp và những khả năng hồi tưởng, liên tưởng, tưởng tượng. Hành uẩn, là thái độ, ý chí, ý muốn. Hiện tuợng tâm lý biểu hiện thôi thúc, dẫn dắt tâm ý theo xu hướng thiện hoặc ác qua sáu căn tiếp xúc với sáu trần sẽ sinh ra sáu thức là nhãn thức (cái biết của mắt), nhĩ thức (tai), tỉ thức (mũi), thiệt thức (lưỡi), thân thức (cái biết của thân) và ý thức (cái biết của ý) của con người.

Nói về sát na, ý niệm trong Phật Giáo là một đơn vị đo thời gian. Ông Vallée Poussin, khi nghiên cứu kỹ lưỡng về vấn đề này, đã diễn tả rằng: “Trong Phật Giáo, cũng giống như trong tất cả thế giới, từ sát na được hiểu như là một khoảng thời gian rất ngắn, nếu chúng ta so sánh với thời gian của ngày, đêm, hoặc giờ. Chỉ có sát na hiện tại là có thực, cho nên chúng ta không nên lo lắng về quá khứ hay tương lai, hãy sống trọn vẹn với giây phút hiện tại với tâm chánh niệm”. 

Thời gian trong cuộc sống có thời gian quy ước, định luật tự nhiên (ngày giờ phút giây còn gọi là vật lý) và thời gian tâm lý (cảm nhận thời gian khi cô đơn buồn bã thì thấy lâu, khi vui thì thấy qua mau)… Theo triết học thì đó là thời gian vô tình và thời gian hữu tình.

Trong bài Sát Na Hạnh Ngộ của anh Thái Tú Hạp:

“Có không nào ai biết

Hoa cỏ giuẫ hư không

Trong sát na hạnh ngộ

Niết bàn cõi tánh không

… Em có bao giờ hiểu

Trong từng sát na tâm

Buồn vui không nói hết

Thôi cũng đành vô ngôn”.

Và, theo anh: “Tất cả mọi thứ trên thế gian nay đều ẩn chứa những ý nghĩ trải nghiệm qua tâm lỉnh, hoàn cảnh thực tế bằng trí tuệ riêng tư của nó để chuyển hóa vào đại dương như Dòng Thơ Suối Nguồn Tâm Thức...”.

“Trong mỗi sát na

Hiện thực trong đời sống

An bình quán tưởng

Tĩnh tâm nguyện cầu”

(Chuyển Hóa Tâm Từ Ái).

“Còn gì trong sát na

Đời buồn mai thức dậy”

(Say Chút Rượu Trầm Luân)

Sát na là khoảng thời gian rất ngắn, có thể là 1/90 giây nhưng cũng có thể dài vô tận như thời gian tâm lý:

“Trăm mùa xuân hốt hoảng

Sát na tưởng chừng dài hơn thế kỷ lo âu”

(Hạnh Phúc Đời Ban Cho)

“Cuộc đời tàn theo ta

Sát na rồi vỡ nát”

(Dấu Tan Ngoài Cuộc Huyễn)

 “Tìm thấy được gì em

Những hoài nghi phi lý

Những biến đổi vô thường

Từng sát na mù mịt”

(Về Qua Phố Hội An)

Khi anh Thái Tú Hạp lâm trọng bệnh, chị Ái Cầm gọi điện thoại cho biết tình trạng của anh quá nguy cập, khi giải phẫu về tim thì chết sống trong gang tấc. Trong giờ phút sinh tử nầy, tùy theo đức tin tôn giáo mà cầu nguyện, gia đình chị chỉ cầu mong Hồng Ân Tam Bảo gia hộ. Khi anh được bình phục, chị Ái Cầm báo tin vui như ước nguyện của anh

“Buổi sáng cầm tay em

Đất trời hoa rực rỡ

Buổi chiều vuốt tóc em

Mây ngàn bao dung mở”

(Mùa Tịnh An)

Đúng 30 năm, chúng tôi gặp nhau nơi đất khách quê người, cách nhau 15 năm với một bài viết về người bạn, người cố quận: nhà thơ Thái Tú Hạp. Mỗi dịp Xuân về, anh chị gọi điện thoại cho biết về Giai Phẩm Xuân của Saigon Times phải có bài của tôi. Thôi thì tùy anh chị, chọn bài nào cũng được. Đã bao lần anh chị nói với tôi viết về “tình sử” thưở xa xưa ở phố cổ Hội An, món nợ nầy đành chịu thua!

Little Saigon, Sept 01, 2020

Vương Trùng Dương

 

Ý kiến bạn đọc
26/09/202019:49:57
Khách
70 năm trước, người viết đã khoác áo chiến binh, THIÊU ĐỐT tuổi xanh của mình ngoài mặt trận Thừa Thiên Quảng Ngãi, cũng đã khóc các bạn chiến binh trên đối cát Quảng Bình, Nên muốn quên, quên hết...
Nay viết mấy câu thơ sau khi cởi bỏ áo lính, nhìn trời đã sang mùa:
Trời đã vào thu, nắng chợt vàng,//
Mây trời đôi sợi bỗng bay ngang,//
Ta nghe bừng thức hồn thơ dậy,//
Viết vội đôi câu, được mấy hàng.//
......................................
Anh có thấy ven sườn núi đỏ,//
Su7o7nng mù lững thững nhẩn nha bay.//
Mẹ ta xưa,//
Đã qua đó,//
Đưa ta về//
Con nhớ quá,//
Mẹ ơi...//
...................
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẩu đối thoại trên là của chàng thanh niên 27 tuổi là Ralph White với nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ trong những ngày cuối tháng Tư năm 1975 của miền Nam Việt Nam trong cuốn hồi ký Thoát Khỏi Sài Gòn (Getting Out of Saigon) của ông vừa được nhà xuất bản Simon and Schuster phát hành...
Hai mươi lăm truyện trong tập sách, ngoài những mảnh đời oái oăm của thế thái nhân tình trong đời sống xã hội hiện tại. Bạn và tôi còn đọc được những câu chuyện thú vị như: Vong Hồn Trên Sông, Đứa Con Phù Thủy, Đôi Mắt Tiền Kiếp, Hẹn Hò… Những câu chuyện có tính cách hoang đường, ma mị, xảy ra ở một quận lỵ heo hút nào đó của tỉnh Quảng Trị, nơi tác giả sinh ra và đã có một thời thơ ấu êm đềm...
Trust (tạm dịch là Niềm Tin) là cuốn sách thứ hai, đoạt giải Putlizer 2023, thuật lại những khúc mắc của chủ nghĩa tư bản thời hiện đại. Mở đầu bằng sự việc dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, sau những đợt bùng nổ và sụp đổ của lịch sử kinh tế từ quan điểm của từng cá nhân. Trust là một tác phẩm hiện đại táo bạo — trong suốt bốn màn, mỗi màn được đóng khung như một “cuốn sách” — tìm cách phá bỏ những quy ước chắc nịch làm nền tảng cho những huyền thoại về sức mạnh của nước Mỹ.
Tôi đưa quyển sách cho con trai, nói con đọc đi. Nó đọc một hai truyện gì đó, rồi nói, ngôn ngữ cũ mèm má ơi. Có vài chỗ khó hiểu nữa. Phải, ngôn ngữ “cũ mèm”, và có vài chỗ “khó hiểu” nữa, ngay cả với tôi. Con tôi thuộc thế hệ của Doraemon rồi Harry Potter. Tôi thuộc thế hệ của Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam, của những truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc trên tạp chí Hương Quê một thời xa lơ xa lắc có lẽ đã trên dưới 60 năm. Cho nên tôi đã miệt mài “ôm” quyển sách trong nhiều ngày liên tục, rảnh được lúc nào là đọc, không theo thói quen con-cà-con-kê của mình...
Tôi chẳng nhớ là mình đã đi vào Thiền tự bao giờ, chỉ biết rằng những ý tưởng nhuốm màu Thiền đã nhật tích nguyệt lũy thấm dần vào tôi như những giọt nước rơi liên tục làm lõm phiến đá. // I cannot recall when I entered Zen Buddhism. I only know that, like drops of water persistently indenting a stone, Zen-like thoughts have been seeping into my mind day by day and month by month.
Tác giả là Ben Kiernan, sinh năm 1953, từng là Giáo sư “Sử học và Các Môn Học Quốc tế và Vùng” tại Đại học Yale nổi tiếng. Ông từng lập ra Chương trình về Diệt Chủng Cambodia và Chương Trình Nghiên Cứu Về Diệt Chủng. Sách của ông trước đây bàn về diệt chủng ở Cambodia cũng như trong những giai đoạn khác của lịch sử loài người
Chúng ta phần lớn từng học sử theo niên đại với nhiều chi tiết tên tuổi cần phải nhớ để đi thi, hay đọc sử nước nhà qua lăng kính của một người công dân gắn bó với quê hương và di sản tổ tiên để lại. Tác giả Goscha là một nhà khoa bảng chuyên về sử học từng được một giáo sư sử học quốc tế nổi tiếng người Việt (từng là giáo sư của Miền Nam Việt Nam) hướng dẫn, và từng huấn luyện và khảo cứu ở nhiều nước liên hệ đến Việt Nam (Pháp, Mỹ, Canada, Úc, Thái Lan). Được một chuyên gia tầm cỡ như thế trình bày những câu chuyện về đất nước, ông bà của của chính chúng ta qua lăng kính đặc biệt của một người ngoại cuộc giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn, và không kém phần thú vị về một đề tài tuy cũ nhưng vẫn còn nhiều điều mới mẻ.
Tuy nhiên, cuốn “Sống Với ‘Thán Dị Sao’ Của Ngài Thân Loan” còn có một phần rất đặc biệt mà chính phần này làm cho tôi thật sự thích thú. Đó là bản dịch tiếng Việt do HT Thích Như Điển thực hiện với đầy đủ 18 chương của cuốn “Thán Dị Sao” từ bản tiếng Nhật hiện đại của Giáo Sư Yamazaki Ryuumyou.
Tóm lại, A History of the Vietnamese là một cuốn sách rất công phu, chi tiết về lịch sử Việt Nam, chú trọng về văn hóa và xã hội, do một Giáo sư Sử học và Việt học người Mỹ từng huấn luyện nhiều sử gia Mỹ về chuyên ngành Việt Nam. Người quen đọc (hay học) sử tiếng Việt theo truyền thống chủ nghĩa dân tộc, hay người từng dùng chủ nghĩa dân tộc như một khí cụ chính trị có thể không đồng ý về một số kết luận, ví dụ về nguồn gốc tiếng Việt hiện đại hay về sự hiện hữu hay không của một "quốc hồn, quốc tính" Việt Nam. Tuy nhiên, đọc một cuốn sử dùng các sử liệu mới nhất và phân tích theo chiều hướng khoa học sử và chính trị hiện đại, người viết bài này cảm thấy biết ơn một nhà học giả ngoại quốc đã đem bao nhiêu thời giờ và tâm huyết để tạo nên một công trình đồ sộ như vậy, chưa từng có trong Anh văn. Ước mong một bản dịch tiếng Việt với đối chiếu các danh từ Anh-Việt và Hán sẽ xuất hiện một ngày nào đó không xa.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.