Nhắc đến thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh, Phan Tấn Hải đã viết: “Đó là những dòng thơ, có khi đọc tới, và rồi có những lúc tôi đứng bật dậy, trân trọng đọc đi, đọc lại từng chữ, từng dòng.
Đó là những dòng thơ, từng chữ một, khi được đọc tới đã hiện ra như một thiếu nữ bước rời khỏi trang sách để len vào đời thường, và rồi các chữ còn lại trên giấy đã tự trở thành những ẩn ngữ thơ mộng.”
*
Bước vào Ngôn Ngữ Xanh, là cùng tư duy với Nguyễn Thị Khánh Minh, là cùng với Thi Ca xoay lại nhìn về Thi Ca, là “phản quan tự kỷ” làm “bật tung những ẩn giấu”. Nó đòi hỏi một “ánh mắt cời khêu”. Có thể trích ra đây một bài “Thơ về Thơ” tiêu biểu trong tập Ngôn Ngữ Xanh này. Đó là bài có tựa đề chỉ có một chữ Thơ.
Nơi không gian thơ
Có thời gian cho lời đọng lại
Thầm thì đi. Bước chân đi mãi
Nơi bóng mát thơ
Khoảnh khắc chữ cho lời rơi xuống
Nghe lắng nghe. Quán tự tại yêu thương
Nơi lửa thơ
Những con chữ nhóm lời cháy đỏ
Thắp mặt trời cho những giấc mơ
Nơi biển thơ
Những con chữ bung lời nắng dậy
Đó là ban mai mỗi ngày được thấy
Bật lên triều xanh của lời
Chắp lên đôi cánh của lời
Bay xa bay xa. Trái tim của một người trao gửi
Bài thơ ngắn nhưng hàm súc cả triết lý về “metapoetry” của Nguyễn Thị Khánh Minh. Một bài “Thơ về Thơ” thật bình dị, dễ hiểu, nhưng sâu thẳm và rốt ráo. Nó cần lắm một “ánh mắt cời khêu” để:
Không gian, thời gian của Thi Ca được dàn ra vô biên vô tận cho những bước chân thầm thì đi mãi.
Cho bóng mát Thi Ca rợp bóng Quán tự tại yêu thương.
Cho lửa thơ thắp ánh mặt trời cho những giấc mơ.
Cho biển thơ bung lời nắng dậy.
Cho bay xa xa mãi, trái tim của một người trao gửi.
Ở đâu một ánh mắt? Để có Ngôn Ngữ Xanh?
– Tô Đăng Khoa
Giữa mong manh và thường trú, kéo lôi của bóng đêm chận ngăn ngày sáng, tiếng lời trỗi dậy biếc xanh mùi gió, lựng ngây thơm mây. Khánh mở ngày với ngôn ngữ xanh rất xanh,
Trở mình lá trong tàn cây mọc cánh
Nắng từng bầy nhảy nhót ban mai
Chạm vào nhau. Vỡ òa ra. Những mảnh…
(Nhịp Ngày, Ngôn Ngữ Xanh)
… Và buổi sáng phiêu nhiên, cái gì đang trôi trong không gian, điệu nhạc? Không nghe âm, chỉ một ngất ngưởng chuyển mình, không nói ra, tôi đang trôi, tôi lờn vờn trong từng âm điệu.
Mở cửa
Dòng nhạc trôi ra ngoài. Ban mai dậy sóng
Nắng lụt tôi trong căn phòng nhỏ
Và tôi. Đang ngộp thở ban mai
Bạn cảm thấy sao khi vừa mở cửa
đã rơi ngay trước mặt mình tiếng chim hót
Và bạn sẽ làm gì với những nốt nhạc ấy?
(Những Nốt Nhạc, Những Buổi Sáng)
Như thế, Nguyễn Thị Khánh Minh vẽ. Không bằng cọ và mầu. Khánh vẽ bằng mực và viết. Cơn lụt nắng nâng cô lên, ban mai bừng đè nặng nhà thơ xuống, Khánh nhìn ngang, ồ cánh cửa. Hãy tung cánh rộng cho sóng dậy vào lòng. Chỉ mấy câu thơ mà thu tóm không gian ba chiều, trên, dưới và ngang, hội tụ vào hình tượng thi ca.
Cũng như thế Nguyễn Thị Khánh Minh hòa âm. Nhạc khúc không viết bằng ký hiệu nhạc nhưng bằng mặt chữ đời thường. Và như thế tôi nghe âm nhạc thoát thai từ bức tranh trong tiết điệu thơ. Thi ca. Tài tình là thế. Và bạn sẽ làm gì với những nốt nhạc ấy? Thi sĩ hỏi, có ai cất tiếng trả lời? Có lẽ không còn cần thiết.
….
Khoảng thời gian im lặng
Là không gian mình đánh mất
Nơi rơi xuống của lời
Thủy chung nào
Ngưng được thời gian
Không gian nào
Giữ những lời đi…
(Đường Mật, Ngôn Ngữ Xanh)
Lời rơi xuống ở khoảng thời gian im lặng, cũng là khi ta mất chốn về, được phía này thì biển dâu giằng co phía ấy? Lựa chọn thành ngã ba trầm thống của đoạn trường. Thủy chung chết cứng dưới nhịp bước thời gian, phôi pha ước hẹn khi lời đã cất và bay đi, không gian rộng đến muôn phương nào giữ lại được. Như mây bay về vô xứ? Lời trở thành chiếc bóng? Như nhạn của Hương Hải? “Ngôn” vô di tích chi ý?
Một liên tưởng không tránh khỏi khi đọc thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh và Dickinson. Tôi chẳng làm sự so sánh vì một sự so sánh như vậy vô nghĩa ở đây. Chữ nghĩa họ cuồn cuộn hồi sinh trở về trong nguyên ngữ tối hậu. “Đường mật” và “A word is dead” là chốn hội tụ anh thư tài tử, đề huề giao hưởng.
A word is dead
When it is said,
Some say.
I say it just
Begins to live
That day.
(A Word Is Dead, Emily Dickinson)
Chữ chết đi
Khi vừa thốt,
Người bảo vậy.
Tôi cho rằng
Lời sống dậy
Lúc rời môi.
(VHT phỏng dịch)
Tôi bắt gặp sự tương lân đồng điệu trong thơ của Khánh và Emily ở chỗ hai cô nương suốt cuộc bình sinh sống chết với Thơ, cật lực hít thở Thơ, chữ thơ ở đây phải được viết hoa cho đúng niềm trân trọng. Một trong những cách định nghĩa thơ của Khánh như thế này,
Thơ
Là dòng sông. Cho tôi trôi đi
Là tiếng khóc. Cho tôi rơi lệ
Là dấu mốc. Nhắc tôi trở về
Là bàn tay. Cho tôi nắm lấy
Nhưng thường khi. Nó là bóng đám mây bay
(Thơ, Ngôn Ngữ Xanh)
Như vậy hội ngộ với Nàng Thơ quả là bất khả, như thể nhắn nhủ với nhân quần, này, tưởng là vậy mà không phải vậy. Cho đến khi ngươi chưa tan hòa trong tinh thể, đừng nghĩ sẽ nắm lấy được tay ta.
Trong mật của Nắng
Hoa hướng dương nở
Trong say men Thơ
Tôi đắm
Nắng và Thơ
Đường mật
Tôi và hoa hướng dương
Buông mình. Rơi. Và tan
(Đường Mật, Ngôn Ngữ Xanh)
Thi ca như một vụ mùa, dù Khánh chỉ nhặt được “đôi ba hạt lúa chín”, chìm vào thơ tựa ngụp lặn ở dòng sông mát mẻ, cho dù “không mang về một hạt nước nào của nó”, cô còn giữ mãi “dư âm cái trườn mình của dòng chảy” (Phút mong manh giữa những từ, tập thơ Ngôn Ngữ Xanh). Từ đó, thơ luồn phong ba dồn dập, thơ ghé bầu khí hậu bàng bạc cô đơn, thơ đưa người vào mơ. Để làm gì? Để mơ với mình thành một.
Em vào giấc mơ anh
Nơi, em được là một giấc mơ…
(Tôi Đang Mơ)
… Tôi nghe niềm hy vọng xanh và lời thầm thì giữa đêm, thoại. Rất nhiều thoại. Độc thoại, giao thoại, đồng thoại với cái bóng của chính cô. Giữa đêm huyền tan chảy.
– Vũ Hoàng Thư
Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh bao nhiêu năm rồi vẫn như thế, thi ngôn nền nã, sáng đẹp, thi tứ trữ tình, lãng mạn, đậm buồn, giàu thi ảnh, tràn đầy cảm xúc, và luôn luôn có những biến ảo lạ lùng trong ngôn ngữ khiến thơ như chắp cánh bay cao và bay xa trong những chiều kích khôn cùng.
Nhan đề bài thơ là Phố Rất Xa. Hiển nhiên, nhà thơ muốn nói về miền đất quê hương của quá khứ, xa lắm rồi, bây giờ chỉ còn mơ hồ hiện về trong tâm tưởng những lúc ngồi cô độc nhìn mảnh trăng non vừa nhú. Thế nhưng suốt bài thơ, tôi không thấy Nguyễn Thị Khánh Minh nói gì về mảnh đất xa xôi ấy, tuyệt đối không, một dấu vết mờ nhạt cũng không thấy, mà chỉ là nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu thẳm của một tâm cảnh trong lúc nhìn trăng lên.
A! Phải chăng đấy cũng là tâm cảnh cho một tứ thơ sầu vạn cổ, “Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương?” Nhưng câu chữ của Nguyễn Thị Khánh Minh ở bài thơ này đã làm người đọc tôi rụng rời để nghiệm ra cái tứ thơ sầu vạn cổ ấy ở bất cứ thời-không-gian nào cũng khiến con người có cơ hội sống thật với hiện thể và bản thể của hắn.
Tôi ngồi cong mảnh trăng non
Trời! Làm sao có thể cảm nhận được hiệu ứng của từ “cong” trong câu thơ? Như được phả bùa phép, cảm xúc từ câu thơ như được đẩy tới một biên vực mới. Tôi ngồi cong người nhìn trăng, hay trăng thượng huyền cong cong nhìn tôi? Có lẽ chẳng cần thiết phải biện biệt như thế, bởi cái nhị đối trở thành cái nhất nguyên và tôi đã tìm về cái tôi trong suốt.
Thế rồi, cái hình tượng tôi-cong-trăng-cong ấy tan vỡ dưới thềm nhà biến thành những “miểng trăng im”.
Vỡ trên thềm những miểng trăng im
Từ một hình tượng tương đối bi sầu nhưng không mấy bi thảm, từ “miểng” của câu thơ trên đã khiến tâm cảnh biến đổi toàn diện. Chua xót. Đau đớn. Ánh trăng tan vỡ trên thềm biến thành những ký ức hãi hùng, những cảnh đời tưởng như chỉ có trong ác mộng!
Lý Bạch ngày xưa “Ngửng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương”, Nguyễn Thị Khánh Minh ngày nay “Cúi xuống một hồn trôi ảo ảnh/ Kéo về đâu tôi bốn phía đêm”. Cách nhau hơn nghìn năm, nhưng hiện thể uyên nguyên là một. Xin cảm ơn, ở chân trời vẫn có người bay, và cảm ơn Khánh Minh.
– Trịnh Y Thư