Hôm nay,  

Nhạc Việt, “tứ thơ” và “tứ phòng trà”

04/11/202308:35:00(Xem: 1410)
PHONG TRA

Bị những kẻ mơ làm ca sĩ dai dẳng tra tấn trong cảnh sống chung chạ ở trại tỵ nạn nên tôi đã, như một hình thức phản vệ, tập cho mình thói quen thưởng thức bằng lỗ tai phân tích, chủ yếu trên khía cạnh ngôn từ.
    Không thể chặn ở bên ngoài lỗ tai, càng không thể để lọt vào tai này rồi tống hết ra ngoài qua lỗ tai kia, tôi chấp nhận sống chung bằng cách xem đó như là nguồn tư liệu cho cái trò chơi chữ nghĩa của mình và, dần dà, khám phá ra rằng, trừ một số đếm trên đầu ngón tay những nhạc sĩ tài hoa và thông tuệ mà tác phẩm ít được phổ biến lằm thì, đa phần, giới sáng tác trên lĩnh vực này hiếm khi có “tứ”.
    “Tứ” là yếu tố quan trọng nhất của một bài thơ và công việc đầu tiên của việc làm thơ phải là tìm “tứ”. Xuân Diệu đã đúc kết kinh nghiệm làm thơ của mình như thế: “Ngôn từ, lời, chữ, vần rất là quan trọng. Tuy nhiên đó là cái quan trọng thứ hai, mà cái quan trọng thứ nhất, làm rường cột cho tất cả, là cái tứ thơ, nó chủ đạo cả bài” [1]. Lời nhạc, trong các ca khúc, cũng vậy. Mà, phần đông, giới thưởng ngoạn của chúng ta vẫn chưa thoát nổi ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn vốn chỉ thịnh hành vào nửa đầu thế kỷ 19 nên, dẫu đã bước sang thời kỳ hậu-hiện đại, giới sáng tác nhạc của chúng ta vẫn còn bám víu vào khuynh hướng thẩm mỹ tiền-hiện đại này, luôn cố làm sao để lời ca nào cũng lãng đãng chất thơ.
    Nhưng “tứ thơ” là gì? Nhà thơ Chế Lan Viên, trên tạp chí Nghiên cứu văn học (11/1961) gọi đó là “ý lớn toàn bài” còn nhà lý luận văn học Nguyễn Xuân Nam, trong Lý luận văn học (tập 2, Nxb Giáo dục, 1987), thì là “hình tượng xuyên suốt bài thơ”, tuy nhiên cả hai cách giải thích này đều bị nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc bác bỏ, cho là “bất cập”. Trong Tìm hiểu nghệ thuật thơ Việt Nam (Quê Mẹ, 1988), nhà phê bình cho rằng một bên chỉ “thiên về ý”, một bên chỉ “thiên về hình tượng”, là hai cách hiểu có thể đưa đến những mối nguy khi “đồng hóa thơ và vè”, khi xóa nhòa ranh giới giữa thơ hay với thơ dở và do đó, sẽ khiến giới mơ làm thi sĩ tưởng rằng làm thơ là chuyện dễ thôi, chỉ là “lắp ráp các hình tượng ngồ ngộ với nhau”. Theo Nguyễn Hưng Quốc thì “tứ thơ” phải bát ngát và sâu rộng hơn, như là “những suy nghĩ của trái tim trước cuộc đời”.
    Trái tim thuộc về khía cạnh tình cảm, mà khi tình cảm phải đảm nhiệm phần việc của lý tính là “suy nghĩ” thì tứ thơ không phải là điều đơn giản, thành thử bao nhiêu người làm thơ – nhất là thơ tán gái “Yêu nàng, bao nhiêu người làm thơ” (“Sơn Tinh Thuỷ Tinh”, Nguyễn Nhược Pháp) – nhưng có được mấy người xứng đáng là nhà thơ?
    Nhạc cũng vậy và, hay nhất, là xét xem những ví dụ cụ thể, như bài “Lời Cuối Cho Em” của Nguyễn Vũ, chẳng hạn. Ca khúc này thường được các ca sĩ quằn quại diễn tả với vẻ mặt đớn đau, nhăn nhó, ra chiều sầu thảm lắm nhưng, khi nghe bằng lỗ tai bình thản của mình, cố tìm cho ra cái “tứ” của nó, tôi không thể nín cười:
 
Nếu ngày mai lỡ chúng mình xa nhau
Anh chôn giấu đời ngàn năm lạnh giá
Nếu ngày mai lỡ chúng mình xa nhau
Anh xin muôn kiếp yêu em mà thôi
 
Nghĩa là tình yêu đang thắm thiết, không gì có thể cách chia và chuyện “lỡ xa nhau” chỉ là giả định, cho một tương lai rất xa. Thế nhưng chỉ sau vài câu thôi, tình ấy đã thay đổi 180 độ:
 
Bây giờ chỉ còn đôi ba giây phút cuối bên nhau
Em nói đi, em nói đi
Dù chỉ một lời làm tan nát lòng nhau
 
Thế là xa nhau thật rồi, đâu phải là giả định, đây phải là một tương lai xa, thật là… trớt quớt!
    Nếu đó là nhạc hài thì đây chính là yếu tố thành công, nói theo Mack Sennett (1880-1960) [2]. Là một tên tuổi lớn của Hollywood với danh hiệu “vua hài kịch”, từng là diễn viên rồi đạo diễn, nhà sản xuất, tham gia sản xuất hàng loạt bộ phim của Charlie Chaplin, Sennett đã tổng kết kinh nghiệm làm thiên hạ cười bằng một danh từ duy nhất là “inconsistency” mà chúng ta có thể dịch là “mâu thuẫn”, “bất nhất” hay nôm na hơn, như đã nói ở trên, là “trớt quớt”. Từ kịch hài đến phim hài hay đơn giản nhất là các câu chuyện tiếu lâm, điểm mấu chốt bao giờ cũng là những nút thắt “trớt quớt” để, khi mở ra được, khán giả sẽ phá ra cười.
    Nhưng nếu thế thì, với ca khúc kể trên, đâu “ý lớn của toàn bài”, đâu là “hình tượng xuyên suốt?” Chỉ vậy thôi, chấp nhận sự “bất cập” đã thấy khó, nói gì đến đòi hỏi cao vời như là “suy nghĩ của trái tim trước cuộc đời”.
    Vân vân, có nhiều thí dụ như thế, và, để thay đổi không khí, hãy nhìn vào một chi tiết, nhỏ thôi, trong một ca khúc bình dân, “Xuân Này Con Không Về” của Trịnh Lâm Ngân. Bị giới mơ làm ca sĩ nhét vào tai mãi, ngày nọ tôi phát hiện ra màn ảo thuật hoa vàng:
 
Con biết bây giờ mẹ chờ tin con
khi thấy mai đào nở vàng bên nương
 
Để rồi sau đó:
 
Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm,
mái tranh nghèo không người sửa sang
khu vườn thiếu hoa vàng mừng xuân
 
Thế là thế nào? Thấy mai đào “nở vàng” nên mẹ biết là Xuân về và chờ trông con, nhưng con không về được nên ngày Xuân bị thiếu hoa vàng, thật là… trớt quớt!
    Cả một ca khúc mà giới sành nhạc tự phong xếp vào hạng “nhạc sang” hay “nhạc thính phòng” là “Niệm Khúc Cuối” của Ngô Thụy Miên cũng vậy. Bị một tay mơ làm ca sĩ tra tấn mãi, hết mở băng nghe đi nghe lại thì ôm cây guitar rên rỉ những âm cao âm thấp theo băng, rên đến mức nhão nhoẹt ngôn từ thì, đến một lúc nào đó, tôi ngơ ngác tự hỏi mình rằng chỉ có vậy thôi mà sao anh ta đau đớn thế: cái trán nhăn nhó, cặp lông mày nhíu lại trên đôi mắt có khi nhắm nghiền, có khi hờ khép như nhìn vào một cõi xa xăm nào đó theo tiếng hát:
 
Dù cho mưa
Tôi xin đưa em đến cuối cuộc đời
Dù cho mây hay cho bão tố
Có kéo qua đây
Dù có gió có gió lạnh đầy
Có tuyết bùn lầy có lá buồn gầy
Dù sao dù sao đi nữa tôi cũng yêu em
 
Lần thứ nhất nghe cũng hay hay. Lần thứ hai cũng đường được. Nhưng đến khi bị nhét vào lỗ tai thêm nữa, thêm nữa, tôi hoàn toàn ngơ ngác bởi, tất cả – mưa, mây, bão, gió, tuyết, bùn lầy, “lá buồn gầy” – có gì là to tát, kinh khủng? Không phải là “big deal” đã đành, chúng, thậm chí, còn là những hiện tượng cần thiết để làm nên cuộc sống muôn màu này, vậy mà làm như thể là trời sắp sập, như thể chiến tranh nguyên tử sắp nổ ra, một tiểu hành tinh nào đó sắp va vào trái đất: “Dù sao dù sao đi nữa…”
    Nếu mây, mưa cùng gió là những hiện tượng tối cần thiết của đời sống và bão tố là cơn trở mình khả chấp của thiên nhiên thì tôi, cá nhân tôi, như một vũ trụ của riêng mình, có thể khủng khiếp hóa những nhu cầu bình thường và cơn khó chịu của thân thể:
 
Dù mỗi ngày phải ăn uống và hít thở
Dù thỉnh thoảng bị khó tiêu, nghẹt mũi
Dù bị ruột thừa, loét dạ dày hay sưng phổi
Dù sao dù sao đi nữa tôi cũng yêu em
 
được không?
    Chỉ khác ở tầm mức lớn nhỏ nhưng, xét về bản chất, cái “tứ” trong lời hát “nhại” này cũng chẳng khác gì nguyên mẫu? Nhưng nếu tôi là nhạc sĩ, viết ra những lời ca như thế, tất sẽ có người phản ứng bởi đã xúc phạm đến “tứ nhạc” của họ. Thứ “tứ” này, tạm gọi là “tứ phòng trà” hay, cách khác là “tứ by night”.
    Gọi thế là bởi những ca khúc phổ thông thường được giới kinh doanh ca nhạc quảng bá là “sang”, là “thính phòng” thường là những ca khúc thích hợp với không khí phòng trà, với hệ thẩm mỹ “by night”. Nhạc của chúng ta, ở miền Nam thời trước, nếu có hai dòng chính là nhạc bình dân cho quần chúng giải trí mà sự phổ biến thuộc về cái máy radio thì, dòng nhạc “cao” hơn, cho giới trung lưu, lại chủ yếu phát sinh từ cái nôi phòng trà. Nhạc bình dân để giải trí thì không bàn, đáng bàn hơn là nhạc của giới trung lưu, như một giá trị dẫn dắt bởi, dẫu sao, chúng cũng… tinh hoa hơn.
    Mà nói đến phòng trà có lẽ chúng ta phải lắng nghe nhà khiêu vũ học Peter Lovatt, nhà hàn lâm xuất thân vũ sư, giảng dạy môn tâm lý biểu diễn nghệ thuật tại Đại học Hertfordshire ở Anh [3]. Nổi tiếng như là “Doctor Dance” với công trình nghiên cứu công phu nhất về “tâm lý khiêu vũ”, Lovatt ghi nhận rằng sinh hoạt khiêu vũ lôi cuốn con người qua hai chức năng kết giao xã hội và chọn lựa bạn tình, theo đó thì “cách hay nhất để lôi cuối một bạn tình thích hợp là thả người một cách thoải mái và tự nhiên theo nhịp điệu”. Mà khi đã “thả” người như thế thì cũng có nghĩa là họ đang thoát đời và, do đó, cần gì đến “suy nghĩ của con tim trước cuộc đời” ngoài những ngôn từ viết sao cũng được, miễn là đèm đẹp, miễn là không lạc phách với nhịp nhảy.
    Nếu Lovatt sử dụng một thứ ngôn ngữ hàn lâm thì chúng ta, trong ý nghĩa đó nhưng nôm na hơn, có thể gọi nhạc của phòng trà, nơi để lựa chọn bạn tình, chính là một thứ… nhạc tán gái. Mà cái hỏng của nhạc tán gái, xét cho cùng, cũng chính là cái hỏng của thơ tán gái đã nói ở trên. Khi làm “thơ” chỉ để xuôi tai người đẹp thôi thì cái cần thiết là những từ ngữ óng ả, đèm đẹp, cần gì đến tứ, cần gì đến “suy nghĩ của con tim trước cuộc đời”. Nhạc tán gái cũng vậy nên, do đó, dẫu đã ghê gớm hóa “dù sao dù sao đi nữa / đưa em đến cuối cuộc đời” thì, cuối cùng, tác giả cũng a…trớt quớt trên khía cạnh “ý lớn toàn bài” hay “hình tượng xuyên suốt”:
 
Rồi mai đây
Ai đưa em đi đến cuối cuộc đời
Dù cho em em đang tâm xé
Xé nát tim tôi
Dù có ước có ước ngàn lời
Có trách một đời cũng đã muộn rồi
Tình ơi dù sao đi nữa
Tôi cũng yêu em
 
Nếu mây mưa bão tố là những biến dịch của không gian thì, dẫu đã kinh hoàng hóa chúng, tác giả vẫn phải buông tay bởi vì sự “muộn” nên, xem như, thời gian đã đè bẹp không gian và đây, phải chăng, là lý do để ông Vũ Thành An ra tay đảo chính?
    Hãy nghe nhạc sĩ này, “Bài không tên số 8”:
 
Về sau và nhiều năm sau nữa
Có buồn nhưng vẫn chưa bao giờ bằng hôm nay.
 
Từ “chưa” là để diễn tả cái gì đó hướng tới phía trước, quá khứ xa tới quá khứ gần, quá khứ đến hiện tại, hiện tại đến tương lai hay tương lai gần đến tương lai xa: năm xưa chưa bằng năm nay và năm nay chưa bằng năm sau, năm sau chưa bằng năm sau nữa, v.v. Vậy mà ông nhạc sĩ này lại đi ngược và, suốt nửa thế kỷ qua, vẫn được để yên, chẳng mấy ai bận tâm trách ông nửa lời về cái lỗi góp phần làm hỏng tiếng Việt.
    Phải chăng là do khán giả của ông dễ tính?
    Hay là họ, trong cái “tứ phòng trà”, không thèm quan tâm bởi nó không làm hỏng nhịp chân?
    Bởi thế, càng bị nghe những ca khúc như thế, tôi càng đau đáu suy nghĩ là, “về sau và bao nhiêu năm sau nữa” thì chúng ta, trong việc thưởng thức âm nhạc, mới thực sự thoát ra khỏi cái “tứ phòng trà” hay hệ thẩm mỹ “by night” hiện tại!
 
Nguyễn Hoàng Văn
 
Chú thích:
 
[1] Lời của Xuân Diệu cũng như Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Nam, được dẫn theo tiểu luận “Tứ thơ” của Nguyễn Hưng Quốc trong cuốn Tìm hiểu nghệ thuật thơ Việt Nam (Quê Mẹ, 1988).
 
[2] Mack Sennett (1880-1960) người Mỹ gốc Canada, nổi tiếng như một nhà cải cách của phim hài.
 
[3] Lucy Tobin, “Why do people dance?”, The Guardian, Dec15th, 2009.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bạn có thể gọi Arnaud Nazare-Aga là một nhà điêu khắc, hay một lạt ma vào đời, hay đơn giản, là một nghệ sĩ và là một cư sĩ. Một thời anh đã ngồi trong tu viện để tạc các pho tượng Phật, tượng Bồ Tát, các trụ điêu khắc, và rồi anh rời tu viện để bước vào đời, trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng trong thế giới tượng hình. Nói kiểu tóm gọn theo văn phong báo chí thường gặp là: một nghệ sĩ Phật tử người Pháp. Nhưng cuộc đời anh đầy những cơ duyên kỳ lạ. Bài viết này tổng hợp từ nhiều báo, trong đó có Forbes, Time Out, Thai PBS World, The Phuket News... Lời tự giới thiệu của nhà điêu khắc Arnaud Nazare-Aga chỉ đơn giản vài đoạn trên trang nhà riêng. Sinh năm 1965 tại Paris, Arnaud Nazare-Aga đã sinh khởi niềm đam mê với kiến trúc và điêu khắc hiện đại từ khi còn thơ ấu. Anh thường xuyên đi thăm viện bảo tàng cùng ba mẹ. Anh được giáo dục trong một cộng đồng Phật giáo Tây Tạng ở vùng Burgundy, miền Đông nước Pháp, và học nghề đúc tượng thạch cao nơi đây.
Được sáng tạo bởi Disney Theatrical Productions (dưới sự chỉ đạo của Thomas Schumacher), vở nhạc kịch The Lion King được trình diễn lần đầu trên sân khấu Broadway vào ngày 13 tháng 11 năm 1997 và đã đón hơn 112 triệu khán giả trên khắp thế giới đến thưởng thức. Sự kiện nhạc kịch mang tính bước ngoặt này quy tụ một trong những đội ngũ sáng tạo giàu trí tưởng tượng nhất tại sân khấu Broadway. Julie Taymor, đạo diễn từng đoạt giải Tony Award®, đã mang đến một câu chuyện tràn đầy hy vọng và phiêu lưu trên phông nền kỳ thú với những hình ảnh tuyệt đẹp. The Lion King cũng sử dụng một số bản nhạc quen thuộc nhất của Broadway do các nghệ sĩ từng đoạt giải Tony Award là Elton John và Tim Rice sáng tác. The Lion King không giống như bất kỳ vở nhạc kịch nào khác.
Ann Phong triển lãm tranh ở Quận Cam, tôi bay qua tham dự. Xem tranh trừu tượng là xem tranh bằng tưởng tượng. Tôi là người sống bằng tưởng tượng. Xem tranh Ann Phong, không chỉ xem cái đẹp, xem nét đặc thù của nữ họa sĩ này, nhưng để sau cùng là xem chính “tôi trong quá trình tưởng tượng từ dãy tranh.” Luhraw viết: “Trước đây tôi chỉ có thể đoán chừng mình là ai. Giờ đây, nhờ nghệ thuật, tôi biết mình là ai.” (Quote.) Có nhiều đêm mất ngủ, tôi thường lên mạng xem tranh, đôi khi, ngủ nhờ trong phòng tranh ảo của Ann Phong. Những khi suy nghĩ về sự hiện sinh của con người, của bản thân, tôi thường tự dẫn mình đến một số tranh của Ann Phong theo quan điểm “Dấu người trên đất.” Tôi yêu thích loạt tranh này, vì Ann Phong nói lên những điều bằng họa, mà tôi chưa thể nói hết những suy nghĩ qua thơ.
Ở nước Mỹ hiện nay, các chính trị gia đang chia rẽ, đấu đá, tranh phiếu cử tri về những vấn đề tưởng như là “chuyện nhỏ” ở các quốc gia văn minh khác. Thí dụ như vấn đề về quyền của người đồng tính. Ở nước Mỹ tự do dân chủ nhất thế giới ngày nay vẫn xảy ra tình trạng đối xử tàn nhẫn, kém văn minh đối với những người đồng tính. Nhiều người khi nghe điều này sẽ không tin đó là sự thật. “Làm sao chuyện đó có thể xảy ra ở xứ sở văn minh này!?” Nhưng sự thật dù khó tin nhưng vẫn là sự thật. Nhất là khi nó được kể lại từ những nhân chứng sống, rồi sau đó được in thành sách, chuyển thể thành phim ảnh.
Trưa Chủ Nhật, 8 tháng 10 năm 2023, tại đài truyền hình SBTN, thành phố Garden Grove, Quận Cam đã diễn ra chương trình Ngọc Trong Tim kỳ 15, với phần trình diễn của các nghệ sĩ khuyết tật đến từ nhiều nơi...
Với một người lãnh đạo có cả tâm, tài và niềm đam mê, với một ban điều hành tâm huyết với nền văn học-nghệ thuật của người Việt tại hải ngoại, với những thiện nguyện luôn sát cánh trong gần hai thập kỷ, có vẻ như VFF đã sẵn sàng đi tiếp thêm 20 năm nữa...
Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm sinh năm 1930 tại làng Hoành Nha, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, trong gia đình theo đạo Tin Lành. Nhập học lớp Đệ Thất vào năm 1944 lúc 14 tuổi tại trường Bưởi...
Nhạc sĩ Y Vũ vừa qua đời tại Sài Gòn ngày 28-9-2023 hưởng thọ 83 tuổi (1940-2023); báo chí lại đặt vấn đề ai là tác giả thật sự của ca khúc nổi tiếng Tôi Đưa Em Sang Sông...
Sáng nay trên trang Facebook, ca sĩ Bảo Yến báo tin nhạc sĩ Quốc Dũng vừa ra đi ngày 24-9-2023. Khoảng mười mấy năm trước Quốc Dũng có sang Hoa Kỳ và ghé ở nhà người quen ở San Jose. Tôi chở Quốc Dũng ra quán cà phê Dạ Thảo, ngồi nghe anh kể chuyện văn nghệ. Anh nói rằng lần này sang Mỹ và sẽ xuống Quận Cam để gặp một nhạc sĩ nổi tiếng mà Quốc Dũng ngưỡng mộ. Bạn có biết người nhạc sĩ đó là ai không- tôi thoáng suy nghĩ- thì ra đó là nhạc sĩ Lam Phương!
Đối với nhiều người Việt tị nạn sinh sống tại hải ngoại, giữ gìn và quảng bá nền văn hóa nghệ thuật của cộng đồng người Việt tị nạn là một sứ mạng tinh thần quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ này không hề dễ, bởi vì các hoạt động văn học nghệ thuật của người Việt hải ngoại thường không sinh lợi, chưa kể công sức tiền của bỏ vào xiết kể. Những người làm văn hóa cần phải có tâm, có sự kiên trì, cả sự gan lì để thực hiện sứ mệnh của mình. Duy trì được những sự kiện văn hóa tại hải ngoại kéo dài đến 20 năm có thể được xem là một thành tích đáng kể. Và năm nay, Đại Hội Liên Hoan Phim Ảnh Việt Nam Quốc Tế “Viet Film Fest” bước vào mốc 20 năm, đánh dấu một đoạn đường dài phục vụ cộng đồng. Ngoài việc hỗ trợ và quảng bá những tác phẩm của các đạo diễn gốc Việt trên thế giới, Viet Film Fest quảng bá phim mang đề tài về con người hoặc văn hóa Việt Nam do những đạo diễn không phải gốc Việt thực hiện.
Hơn ba năm sau khi bị đánh cắp ở Laren, bức tranh ‘The Parsonage garden at Nuenen in Spring’ (tạm dịch: Vườn Nhà Mục Sư ở Nuenen vào Xuân) của Van Gogh đã được tìm lại. Việc trả lại được thực hiện bởi thám tử tư nhân người Hà Lan Arthur Brand.
Khi nói về nền âm nhạc Việt Nam thời hiện đại, không thể không nhắc đến nhạc sĩ Phạm Duy. Đã có quá nhiều mỹ từ mà giới yêu nhạc Việt Nam sử dụng khi nói về ông: người nhạc sĩ của thế kỷ, phù thủy âm nhạc, cây đại thụ của ca khúc Việt Nam… Cũng vì thế, viết và nói về nhạc sĩ Phạm Duy là một điều khó, vì đã có quá nhiều người phân tích từ đủ mọi góc cạnh. Từ những nhà phê bình âm nhạc, cho đến bạn bè của ông là những văn nghệ sĩ, hay những người mến mộ. Họ viết về cuộc đời nổi trôi theo vận nước Việt Nam của Phạm Duy, về giai điệu và ca từ Phạm Duy, về khả năng sáng tác bền bỉ của người nhạc sĩ thiên tài…
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.