Hôm nay,  

Gia đình thừa kế người Do Thái kiện Bảo Tàng Gugenheim về quyền sở hữu bức tranh Picasso đắt giá

03/02/202300:00:00(Xem: 3667)

tin 2
Bảo tàng viện cho biết chủ nhân của bức tranh “Woman Ironing” đã bán tranh khi chạy trốn khỏi Đức Quốc Xã. Cuộc giao dịch được thực hiện “công bằng”. Trong khi những người thừa kế của người chạy trốn này nói rằng ông đã phải bán bức tranh dưới sự ép buộc. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)
 
Năm 1916, Karl Adler, một người Đức gốc Do Thái, đã mua bức tranh “Cô Thợ Giặt” (Woman Ironing) của Pablo Picasso từ chủ một phòng tranh danh tiếng ở Munich. Bức tranh này hiện được đánh giá là một kiệt tác.
 
Nhưng 22 năm sau, khi ông và gia đình trốn khỏi Đức từ sự đàn áp của Đức Quốc xã, ông buộc lòng phải bán bức tranh lại cho phòng trưng bày với mức giá ít ỏi. Theo hồ sơ một vụ kiện được đệ trình gần đây, vụ bán lại bức tranh này là “một nỗ lực trong tuyệt vọng, huy động tiền mặt để chạy trốn.”
 
Giờ đây, một số họ hàng xa của Adler đang đệ đơn kiện Solomon R. Guggenheim Foundation, nơi mà bức tranh đã được hiến tặng từ hơn bốn thập niên trước. Vụ kiện nhằm đòi lại quyền sở hữu tác phẩm và lấy lý do là mức giá 1,552 đô la năm 1938 (tương đương khoảng 32,000 MK ngày nay) là một bằng chứng rõ ràng cho thấy nó đã bị bán đi dưới sự ép buộc.
 
Đơn khiếu nại được gửi lên Tối Cao Pháp Viện ở New York trong tháng này cho biết: “Lẽ ra Adler đã không bán bức tranh vào thời điểm đó và mức giá đó, nhưng vì cuộc đàn áp của Đức Quốc Xã mà ông và gia đình đã, đang và sẽ tiếp tục phải chấp nhận.”
 
Tuy nhiên, bảo tàng sẽ bảo vệ quyền sở hữu của mình đối với bức tranh, khẳng định rằng Adler đã tham gia một “giao dịch công bằng” với phòng trưng bày mà ông ấy hiểu biết khá rõ. Ngoài ra, nhiều năm trước, bảo tàng đã từng nói chuyện với con trai của Adler, và người này không hề có ‘lấn cấn’ gì về bức tranh cũng như vụ mua đi bán lại này.
 
Trong một tuyên bố, Guggenheim cho biết họ “vô cùng để tâm đến các vấn đề xuất xứ và yêu cầu bồi thường” và đã “tiến hành nghiên cứu sâu rộng và điều tra tường tận” về bức tranh “Woman Ironing” (1904), một trong những tác phẩm được đánh giá cao nhất của họ.
 
Bức tranh vẫn được trưng bày công khai và gần như liên tục tại Guggenheim kể từ khi nó đến với bảo tàng vào năm 1978. Nó là một phần trong di sản của Justin Thannhauser đối với bảo tàng, người đã giúp điều hành phòng trưng bày ban đầu đã bán bức tranh Picasso cho Adler và sau đó mua lại nó.
 
Theo mô tả của New York Times, bức tranh là “một hình ảnh đầy ám ảnh với các tông màu câm là xanh và xám, miêu tả một người phụ nữ gầy trơ xương. Đôi mắt nàng hốc hác, hai gò má nàng hóp lại, hai tay nàng đang dùng hết sức đè lên một chiếc bàn ủi trên bàn.”
 
Nancy Spector, cựu giám đốc nghệ thuật và giám tuyển chính của Guggenheim, đã viết trong một bài phân tích về tác phẩm trên trang web của mình rằng “Có lẽ không nghệ sĩ nào miêu tả cảnh ngộ của tầng lớp thấp cổ bé họng sâu sắc hơn Picasso. Cô Thợ Giặt là hình ảnh tinh túy của Picasso về sự vất vả và mệt mỏi.”
 
Tranh chấp pháp lý về bức tranh có khả năng làm bật lên câu hỏi về mức độ mà Adler đã bị cưỡng ép vào thời điểm bán nó. Gia đình ông đã trốn khỏi Đức, và trong tuyên bố của mình, Guggenheim lưu ý rằng, không giống như các tác phẩm nghệ thuật đã bị Đức Quốc Xã cướp đi, bức tranh này được bán cho một phòng trưng bày mà Adler, chủ nhân của nó, có hiểu biết rõ ràng.
 
Tuy nhiên, luật sư của các nguyên đơn nói rằng gia đình ông liên tục gặp khó khăn về tài chánh sau khi rời quê hương và “bị buộc phải phiêu lưu qua lại nhiều nước Châu Âu,” và rằng nỗi thống khổ đó thể hiện rõ ràng ở việc Adler sẵn sàng “bán bức tranh với giá thấp hơn nhiều so với giá trị thực của nó.” Theo tài liệu của tòa án, Adler đã biết được rằng một bức tranh như vậy khi bán ra vào năm 1932 phải có giá từ 14,000 đô la trở lên, gần gấp 10 lần số tiền mà ông đã bán nó cho Thannhauser vào năm 1938, sáu năm sau đó.
 
Giá trị ước tính hiện tại của bức tranh là từ 100 triệu đến 200 triệu đô la.
 
Trong tuyên bố của mình, Guggenheim nhấn mạnh những gì họ mô tả là nỗ lực thiện chí để giải quyết tranh chấp. Bảo tàng cho biết họ đã “tham gia vào cuộc đối thoại với luật sư của những người yêu sách trong suốt vài năm,” nhưng sau đó họ quyết định rằng “tuyên bố đòi lại quyền sở hữu bức tranh là không có cơ sở.”
 
Guggenheim cũng chỉ ra thực tế rằng họ đã liên lạc với con trai của Karl Adler, Eric Adler, vào những năm 1970, để thảo luận về nguồn gốc của bức tranh – và Eric Adler “không đưa ra bất kỳ mối lo ngại nào” vào thời điểm đó.
 
Bảo tàng cho biết: “Sự thật chứng minh rằng việc Karl Adler bán bức tranh cho Justin Thannhauser là một giao dịch công bằng giữa các bên có mối quan hệ lâu dài và liên tục. Guggenheim tin rằng kết quả của vụ kiện hiện tại sẽ xác nhận rằng bảo tàng là chủ sở hữu hợp pháp của ‘Woman Ironing.’”
 
Nicholas M. O'Donnell, một luật sư chuyên về các vấn đề nghệ thuật, cho biết điều quan trọng là Adler đã bán bức tranh sau khi chạy trốn khỏi Đức.
 
Theo O’Donnell, lịch sử và luật pháp đều công nhận rằng một người Do Thái không có quyền thực hiện một thỏa thuận công bằng trong lãnh thổ do Đức Quốc Xã kiểm soát. Nhưng ông cũng nói thêm là chưa rõ mức độ cưỡng chế mà tòa án sẽ ấn định đối với một vụ mua bán được thực hiện ở bên ngoài vùng lãnh thổ đó.
 
Bản thân Thannhauser cũng là một nhân vật gây tranh cãi. O'Donnell nói: “Ông ấy thật tình cờ ở đúng nơi, đúng thời điểm để lấy đi rất nhiều thứ từ tay những người Do Thái đang tuyệt vọng và tìm đường chạy trốn khỏi Châu Âu.” Ai bảo vệ ông ấy sẽ nói, ‘”Ông ấy là người đã giúp họ (những người Do Thái).” Còn ai chỉ trích ông ấy sẽ nói, “Thật nực cười là dường như cho tới cuối cùng thì những gì còn lại về ông ấy chỉ toàn là về tác phẩm ‘rầu rĩ’ này.”
 
Việt Báo phỏng dịch theo bài viết “Jewish Heirs Sue Guggenheim Over Ownership of a Prized Picasso” của Matt Stevens, được đăng trên trang NYTimes.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Đối với nhiều người Thái Lan, Chalermchai Kositpipat là họa sĩ đương đại lớn nhất của nền mỹ thuật Phật Giáo Thái Lan. Những nét vẽ và kiến trúc của ông vừa mang chất thần thoại truyền thống, vừa đậm chất kỹ thuật tân kỳ của thế kỷ 20 và 21 – vừa dịu dàng, thơ mộng, như thật như mơ, nhưng là những bước đi đầy các khám phá mới trên vùng đất tiền nhân chưa khai thác hết, nổi tiếng với việc sử dụng hình ảnh Phật giáo, và các họa phẩm của Chalermchai đã nhiều lần triển lãm trên toàn thế giới. Chalermchai Kositpipat sinh ngày 15/2/1955. Thân phụ ông là một người Trung Quốc nhập cư từ Quảng Đông trong khi mẹ anh là người Thái gốc Hoa. Kositpipat theo học tại Đại học Mỹ thuật Silpakorn, tốt nghiệp Cử nhân Mỹ thuật chuyên ngành nghệ thuật Thái Lan năm 1977.
Có một người sống trong thành phố, bận rộn, tranh đấu, xông pha, lăn lộn giữa sự phức tạp như một sinh trùng bị mắc lưới nhện vẫn phải vùng vẫy để sống, để chờ ngày bị ăn thịt. Một hôm, ông ta đi du lịch, thấy một phong cảnh đẹp đến mức lặng người, cảm thấy siêu thoát, nhận ra đạo lý của mục tiêu tại sao con người tồn tại. Nhưng vẫn phải trở về phố cũ, y như Lưu Nguyễn phải trở về làng cũ vì những lý do chính xác, vì lẽ phải của những bổn phận làm người. Ông vẽ lại phong cảnh đó trên một vách tường lớn. Mỗi khi đời giông bão, mỗi khi hồn âm u, mỗi khi trí khổ não, ông đến trước bức tranh, nhìn ngắm, ngẫm nghĩ để tìm thấy sự thanh thản, sở hữu cảm giác bình an. Ông nghe được tiếng hát “chiều nay vang lừng trên sóng.” Ông thấy được “Âm ba thoáng rung cánh đào rơi. Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời.” Hồn ông “lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan.” Những giờ phút tĩnh lặng đó, tâm trí ông “Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quên … là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi…”
Bạn có thể gọi Arnaud Nazare-Aga là một nhà điêu khắc, hay một lạt ma vào đời, hay đơn giản, là một nghệ sĩ và là một cư sĩ. Một thời anh đã ngồi trong tu viện để tạc các pho tượng Phật, tượng Bồ Tát, các trụ điêu khắc, và rồi anh rời tu viện để bước vào đời, trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng trong thế giới tượng hình. Nói kiểu tóm gọn theo văn phong báo chí thường gặp là: một nghệ sĩ Phật tử người Pháp. Nhưng cuộc đời anh đầy những cơ duyên kỳ lạ. Bài viết này tổng hợp từ nhiều báo, trong đó có Forbes, Time Out, Thai PBS World, The Phuket News... Lời tự giới thiệu của nhà điêu khắc Arnaud Nazare-Aga chỉ đơn giản vài đoạn trên trang nhà riêng. Sinh năm 1965 tại Paris, Arnaud Nazare-Aga đã sinh khởi niềm đam mê với kiến trúc và điêu khắc hiện đại từ khi còn thơ ấu. Anh thường xuyên đi thăm viện bảo tàng cùng ba mẹ. Anh được giáo dục trong một cộng đồng Phật giáo Tây Tạng ở vùng Burgundy, miền Đông nước Pháp, và học nghề đúc tượng thạch cao nơi đây.
Ann Phong triển lãm tranh ở Quận Cam, tôi bay qua tham dự. Xem tranh trừu tượng là xem tranh bằng tưởng tượng. Tôi là người sống bằng tưởng tượng. Xem tranh Ann Phong, không chỉ xem cái đẹp, xem nét đặc thù của nữ họa sĩ này, nhưng để sau cùng là xem chính “tôi trong quá trình tưởng tượng từ dãy tranh.” Luhraw viết: “Trước đây tôi chỉ có thể đoán chừng mình là ai. Giờ đây, nhờ nghệ thuật, tôi biết mình là ai.” (Quote.) Có nhiều đêm mất ngủ, tôi thường lên mạng xem tranh, đôi khi, ngủ nhờ trong phòng tranh ảo của Ann Phong. Những khi suy nghĩ về sự hiện sinh của con người, của bản thân, tôi thường tự dẫn mình đến một số tranh của Ann Phong theo quan điểm “Dấu người trên đất.” Tôi yêu thích loạt tranh này, vì Ann Phong nói lên những điều bằng họa, mà tôi chưa thể nói hết những suy nghĩ qua thơ.
Viện Bảo Tàng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tọa lạc tại địa chỉ 9842 Bolsa Ave #205, Thành phố Westminster, CA 92683 do Hậu Duệ Bác Sĩ Nguyễn Hoàng Quân làm Giám Đốc đã tổ chức Tết Trung Thu cho các em Thiếu Nhi trong hai ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật 16-17 tháng 9 năm 2023.
Hơn ba năm sau khi bị đánh cắp ở Laren, bức tranh ‘The Parsonage garden at Nuenen in Spring’ (tạm dịch: Vườn Nhà Mục Sư ở Nuenen vào Xuân) của Van Gogh đã được tìm lại. Việc trả lại được thực hiện bởi thám tử tư nhân người Hà Lan Arthur Brand.
Chúng ta không biết phải dịch chữ “immersive art” như thế nào. Khái niệm này chỉ mới xuất hiện vài năm nay, mặc dù đã xuất hiện, phần nào, trong các loại hình nghệ thuật khác, từ cả nhiều thế kỷ trước. Hình như triển lãm “immersive art” lần đầu tiên ở Los Angeles và Las Vegas là đầu năm 2022, với tranh Van Gogh. Phòng triển lảm sử dụng hình ảnh, âm thanh, không gian, sự chuyển động của màu sắc để làm cho bạn, người khán giả, trở thành một người đang tắm gội trong không gian nghệ thuật của họa sĩ Van Gogh (1853-1890). Tại sao chọn Van Gogh để triển lãm đầu tiên cũng chưa rõ, có lẽ vì tranh họa sĩ này sống động, dữ dội hơn nhiều họa sĩ khác, hấp dẫn hơn với dân Nam California. Có thể dịch chữ “immersive art” là hội họa “trải nghiệm hòa nhập” hay “trải nghiệm nhập vai” – bởi vì, khán giả tự thấy mình trở thành một phần của tác phầm đang chuyển động giữa thế giới màu sắc của họa sĩ.
Giới yêu hội họa, hẳn nhiên, đều biết tác phẩm Em Thúy của họa sĩ Trần Văn Cẩn. Bức danh họa này hoàn tất vào năm 1943, và “đã được công nhận là Bảo vật quốc gia.” Tuy thế, không mấy ai để ý là có đến hai phụ nữ tên Nguyễn Thị Minh Thúy (và hai đều được dư luận nhắc đến như là nguyên mẫu của tác phẩm nổi tiếng trên) nhưng cuộc đời của họ lại hoàn toàn khác hẳn nhau.
Những bức vẽ của Pigcasso, một chú heo được nhà hoạt động vì quyền động vật người Nam Phi Joanne Lefson nhận nuôi, được bán ra với giá khoảng 26,000 MK cho mỗi bức, theo cuốn sách mới của Lefson, “Pigcasso: Nàng họa sĩ lợn triệu phú đã cứu một khu bảo tồn” (Pigcasso: The Million-dollar artistic pig that saved a sanctuary).
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.