Chiến Tranh Hoạt Động Cật Lực

15/10/202216:56:00(Xem: 2037)

war (2)

 

Chiến tranh hoành tráng biết bao!

Thật háo hức!

Thật hiệu lực! Sáng sớm,

còi báo động đánh thức

xe cứu thương lên đường túa ra khắp nơi,

xác chết đong đưa trong gió

băng ca tròng trành nạn nhân,

gọi mưa từ mắt mẹ,

đào đất tàn phá những đổ nát hoang tàn …

Những kẻ bất động và sáng lấp lánh,

những người tái xanh vẫn còn đớn đau …

nảy sinh nhiều thắc mắc nhất

trong tâm hồn trẻ em,

giải trí cho thánh thần khi bắn pháo hoa bằng hỏa tiễn

lên bầu trời,

chôn mìn trong đồng ruộng

thu hoạch xương nát thịt tan,

bắt buộc gia đình di tản,

đứng cạnh bên thầy tu

nghe họ nguyền rủa ma quỷ

(tội nghiệp quỷ ma, còn lại một tay

đốt cháy trong lửa) …

Chiến tranh tiếp diễn đêm ngày

tăng cảm hứng cho bạo chúa

đọc những diễn văn dài

thưởng huân chương cho tướng lãnh

tạo đề tài cho người làm thơ

đóng góp cho công kỹ nghệ

chế tạo chân tay giả,

cung cấp thực phẩm cho ruồi,

viết thêm nhiều trang sử,

thành lập sự bình đẳng

giữa nạn nhân và sát nhân,

giúp người yêu viết thư,

tạo phụ nữ thói quen chờ đợi,

tràn ngập trên báo chí

bài viết và hình ảnh,

xây cất nhà mới cho trẻ mồ côi,

tiếp tay việc sản xuất quan tài,

vỗ nhẹ vào lưng khen thưởng người phu mộ

và vẽ nụ cười trên mặt lãnh đạo gia.

 

Chiến tranh hoạt động siêng năng

chưa từng thấy!

vậy sao không một ai

cho nó lời khen ngợi.

 

Dunya Mikhail

Bản Anh Ngữ: Salaam Yousif và Liz Winslow

Ngu Yên dịch

 

***

Dunya Mikhail, công dân Mỹ, gốc Iraq. Nhà văn và nhà thơ. Tốt nghiệp đại học Baghdad, trở thành nhà báo và dịch thuật cho tờ The Baghdad Observer. Sinh 1965 tại thủ đô Baghdad. Trải qua chiến tranh Irag-Iran 1980 – 1988 và chiến tranh vùng vịnh 1992.

Vì vậy, thơ của bà thường đề cập đến kinh nghiệm chiến tranh, tử vong, và thất tán. Rời Irag năm 1995, đến Mỹ, cư trú tại tiểu bang Detroit. Trở thành thi sĩ hàng đầu của thời đại. Nhận giải United States Artist Fellowship, Guggenheim Fellowship, a Knights Foundation grant, a Kresge Fellowship, and the United Nations Human Rights Award for Freedom of Writing.

Xuất bản: THE WAR WORKS HARD, DIARY OF A WAVE OUTSIDE THE SEA, (Giải Arab American Book Award), THE IRAQI NIGHTS, và IN HER FEMININE SIGN.


Bà là nhà thơ lưu vong. Trong cuộc phỏng vấn của NPR, Mikhail nói: “Tôi cảm thấy thơ không phải là thuốc (chữa bệnh), nó là tia (quang tuyến) X. Giúp cho chúng ta nhìn thấy và hiểu rõ vết thương. Tất cả chúng ta đều cảm thấy xa lạ vì tình trạng bạo lực liên tục xảy ra trên thế giới. Chúng ta cảm thấy cô đơn, nhưng cũng cảm thấy có nhau. Vì vậy, chúng tôi trông cậy vào thơ như một thứ gì khả thể để tồn tại.”

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một mai đây đất nước này trở lại / Đón bình minh, trong ánh sáng chan hòa, / Chúng ta cùng nối lại bản tình ca / Khi Cô Vi đã lui vào dĩ vãng.
Ngày săn giặc, ngoại biên tây tiến / Đêm Hạ Lào, tác chiến viễn phương / Ba lô, súng trận, sa trường / Tiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn
Bờ hiên dĩ vãng xanh rờn nhung nhớ mà đau như có gai đâm vào da thịt một thời xưa ta ở nơi đâu trong ngôi nhà ấu thơ có hàng chè tàu chiếc cổng xi măng con đường đất đá trên bờ thành ấu thơ ta đã trèo lên ngồi vắt vẽo chân đánh đu hạnh phúc
Vĩnh Hảo, vốn dĩ là một nhà văn đa tài, từ cuối thập niên 1980's với những những tác phẩm mà chúng tôi ưa thích như: Thiên Thần Quét Lá (tập truyện), Núi Xanh Mây Hồng (truyện dài), Cởi Trói tập I & II (truyện dài), và Mẹ, Quê Hương và Nước Mắt (tập truyện), v.v... Ngoài ra, ông là một nhà báo, nhà thơ và hơn hết là một hành giả Đạo Phật nghiêm túc, từ tốn và chuẩn mực. Chúng tôi may mắn được xem ông như là một pháp hữu thân tín. Những gì cần nói, ông nói; những gì cần làm ông làm; thậm chí những gì im lặng, ông lại im lặng cũng vì lợi ích chung và cho số đông. Ông vốn nhẹ nhàng, thầm lặng nhưng nổi bật trong những gì ông để ý đến từ văn hoá, nghệ thuật, Phật giáo đến công cuộc hoằng pháp, và kể cả việc làm từ thiện ở miền sâu, miền xa tại Việt Nam.
Langston Hughes là một thi sĩ da đen nổi tiếng của Mỹ. Bài thơ này được xuất bản năm 1930, thời điểm của cuộc Đại Suy Thoái. Người da đen khi ấy vẫn chưa có quyền bình đẳng như bây giờ. Phải đợi đến phong trào Civil Rights vào thập niên 1960 luật pháp mới cho phép họ ăn chung bàn, ngồi chung chỗ với người da trắng... Bây và cả chủng tộc bây Hãy nhìn xuống nơi bây đang sống Mà xấu hổ. Hãy nhìn xuống những người da trắng Rồi nhìn lại mình Mà xấu hổ Rằng cái nghèo vẫn ngửa ngay ra đó, Rằng con ngu cái dốt cứ đẻ đầy ra đó
Tan sương đầu ngõ có đâu ngờ / Gặp lại ta là mây xanh lơ / Hôm nay tạnh ráo màu siêu thực / Bữa nọ òa bay sắc viễn mơ / Cảm tạ tình sau thương ý trước / Tri ân tâm đạo thấu huyền cơ / Biển dâu dẫu biết lòng chưa thỏa / Vẫn ngước trông lên lạy mịt mờ.
có thể chúng ta sẽ có thuốc chủng ngừa COVID-19 không lâu lắm / nhưng cũng cần có vắc-xin cho bệnh mù quáng, cố chấp / đất nước nầy đặt nền tảng trên người dân ̶ ̶ ̶ / of the people by the people for the people
“Chúng ta đến xứ sở này xa lạ / ra đi chưa hết lạ / nhưng không bao giờ thôi yêu mến / mặt hồ đại dương / căn nhà chở che hạnh phúc / lối mòn nhỏ ven rừng con ta bước tiên khởi tự do. / Đây là nơi chúng ta hàn gắn mình / Như thợ giày khâu vết thương há miệng / Sau đường dài ngập máu / sau đường dài ngập phân / sau chợ chiều cân xác chết chiến tranh / một triệu tiếng chuông không mua hết oan hồn. / Đây là nơi chúng ta sống đàng hoàng / và chết vào buổi chiều có cánh / bay về một xứ sở đã xa.
Từ em mắt biếc cười hiền / Mà nghe đau tận trong miền thịt xương / Mình không chung một con đường / Tháng ngày qua vẫn như dường ban sơ
Không thể về lại Hôm Qua / Để tránh lầm lỗi nào, ta đã làm / Thì Hôm Nay, hãy vững vàng / Chánh-kiến, mà sống đàng hoàng hơn thôi