Hôm nay,  

“And I’m Guilty of That!”

18/07/202500:00:00(Xem: 355)

 
“Murderer!”
“What?”
“Quân sát nhân!”
“Ai?”
“Mày chứ ai. Quân sát nhân!”
“Cái gì?”
“Mày là murderer!”

Cũng một chữ tiếng Anh, cũng một câu kết tội, nhắc đi nhắc lại, nhấn mạnh ở âm cuối của cái chữ quan trọng. Mur-de-RER. Chị tôi quả quyết. Hệt như gã ma men dằn cái ly xuống mặt bàn, đòi thêm rượu.

Tôi chần chừ vài phút. Tôi cân nhắc từng chữ cái câu chị vừa nói. Và tôi hiểu ra.

“Em hả?”
“Đúng.”
“Chị nói cái gì vậy?”
“Tao nói về mày. Mày là murderer.”

Tôi hít một hơi dài. Tôi cần giữ bình tĩnh. Và cũng để khảo sát tình thế (chị vẫn dạy khôn tôi như thế. Phải biết dừng quân để khảo sát tình hình.)
“Giả như chị nói đúng thì cái chữ chính xác là murderess; nữ sát nhân, hiểu chưa?”

“Đừng làm tài khôn,” chị gạt ngang. “Mày có tội sát nhân cấp một.”

Tôi ngừng để suy nghĩ. Chị nói dai phát sợ. Cái tật ấy của chị chèn ép tôi, xô tôi tới bờ vực. Bờ vực của lời thú tội. Nhưng mà tội gì mới được chứ?
Okay, who did I killed then?” tôi hỏi, cố gắng khai thác thêm chi tiết. Và cũng để chứng tỏ thiện chí hòa giải.

Whom chứ không phải who.” Chị sửa sai tôi. Chắc chị đang hí hửng vì gỡ huề được một bàn. Tôi biết hết. Tôi có thể bắt được hơi hướm hả hê trong tiếng thở ra của chị.

“Ờ, nhưng mà em giết ai?”

“Bà ngoại.”

Vậy nhé. Đến nước này thì cuộc đối thoại giữa Wendy – bà chị lớn của tôi mà tên khai sinh là Uyên bị đổi thành Wendy cho dễ gọi – và tôi không còn là cuộc song đấu, tranh tài xem ai môi mép và thông minh hơn, mà đã trở nên nghiêm trọng. Nghiêm trọng không phải vì có một vụ sát nhân vừa xảy ra - dù sát nhân thì bao giờ cũng nghiêm trọng - mà vì Wendy làm tôi nổi nóng. Theo cái cách mà chị ấy vẫn thường làm và luôn thành công.

Và thêm vào đó cái chuyện buồn. Bà ngoại chúng tôi đã mất. Mới đây thôi.

“Làm sao em giết bà ngoại được?” Tôi gầm gừ. Tôi nuốt nước bọt. Tôi cố dằn nỗi bực tức đang trào lên cổ họng.

“Đừng giả ngu, Annie à. Chuyện ấy mày không biết thì ai biết.”

Annie là tên tôi mà đúng ra trên giấy tờ là An, tôi thêm cái đuôi cho cái tên đỡ trơn tuột khi người ta gọi.

Chị tôi đang gây hấn. Tôi biết tính chị. Thành ra tôi hắng giọng, triệu tập binh sĩ. Sẵn sàng nghênh chiến.

“Em ở cách xa hai ng...” tôi ngừng để tính nhẩm. Từ chỗ tôi đang ở đến tận Vancouver. Cả ngàn cây số chứ đâu có ít. “Lúc bà ngoại mất, em ở xa hai ngàn cây số... Làm cách nào... làm cách nào...” Tôi hét vào điện thoại. Cơn giận siết cổ tôi, ngắt khúc câu tôi nói.

“Chẳng bào chữa cách nào được đâu, thưa cô!”

Wendy dằn từng chữ. Hằn học. Cay đắng. Hệt bà công tố viên trong phiên tòa hình sự.

“Bào chữa cái gì?” tôi hét.

“Tội của mày.”

Chị tôi nói. Nghiêm trang rất mực; nghiêm trang đến ngộp thở.

Con cháu không nên đùa cợt về cái chết của bà ngoại thân yêu của chúng. Tôi nghĩ. Cho dù Wendy là tay đùa dai khét tiếng, là kẻ châm chọc mọi chuyện - nhất là những gì liên quan đến tôi - thì chị cũng không bao giờ kết tội là tôi giết bà ngoại, nếu như đó không là sự thật.

Nhưng giả sử “căn cứ trên dữ kiện” (câu nói đầu môi của chị) chị biết là tôi đã – vô tình, dĩ nhiên – gây ra chuyện đó, thì cũng đừng la lối ầm ỹ trên điện thoại như thế. Lỡ cảnh sát đang nghe thì sao. Lúc ấy chỉ cần mảnh giấy ghi lệnh tòa, là cả nước nghe được hết từng câu từng chữ. Ý nghĩ ấy làm tim tôi lỡ nhịp. Tôi bắt đầu nao núng. Tuy nhiên phải nói cho ra chuyện. Tôi đâu có làm cái điều mà chị tôi đang kết tội là tôi đã làm.

Tôi không có bất cứ tội trạng nào.

Thành ra tôi nói “Bà khùng rồi,” và cúp điện thoại cái cụp, như thể tôi đang vội làm bài thi. Hay đang ầu ơ bên cạnh một đứa trai đẹp.

Và tôi ngồi. Đăm đăm nhìn cái laptop. Như con nhỏ công chúa nào đó thôi miên tấm gương thần. Tôi hỏi gương thần rằng tôi có tội không. Rằng Wendy nói đùa hay nói thật. Tôi nhớ bà ngoại. Ngoại thích chim. Điều đó hiển nhiên. Mùa hè bà thả bộ ở sân trước. Ném vung vãi những mảnh bánh mì vụn, những hạt cơm. Ngoại lôi kéo lũ chim ríu rít về sân nhà.

Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.

“Mua làm gì nữa?” bà nói. “Sớm muộn gì thì nó cũng lại chết thôi.”

Đó là cái thời mà bà ngoại vẫn còn nhìn thấy. Có một lần nọ. Trong phòng khám, bác sĩ gia đình trầm ngâm suy nghĩ. Và vội chuyển ngoại đến bác sĩ nhãn khoa. Ông bác sĩ mắt cũng trầm ngâm. Rồi khe khẽ lắc đầu. Cái chứng cao nhãn áp độc địa. Đùng một cái bà ngoại trở thành mù lòa.

Không còn nhìn thấy, bà ngoại vẫn mò mẫm dọc theo vách tường. Ra cửa. Lắng nghe lũ chim lanh chanh trên cây liễu trước nhà. Lũ chim tụ tập lúc sớm mai và chiều tối. “Chúng nó cãi nhau nghe vui đáo để,” bà ngoại nói lúc tôi ngồi bên cạnh, miễn cưỡng lắng nghe bà kể về con chim sáo của bà, suốt thời gian tôi vắng nhà, bận rộn với cái-thứ-gọi-là tương lai.

“Ai cãi nhau hở ngoại?” Tôi hỏi, tròn mắt ngạc nhiên.

“Thì lũ chim chứ còn ai vào đây nữa.”

“Ngoại funny quá. Cãi nhau sao lại vui được?” Tôi bắt bẻ. Những chuyện cãi cọ của bố mẹ lúc chị Uyên và tôi còn bé hiện lên rõ nét. Dạo ấy chị Uyên và tôi còn dựa dẫm vào nhau. Khi chị ấy chưa là Wendy, chưa biến thành đối thủ của tôi trong cuộc chiến giữa những đứa con một nhà. Vậy thì vui chỗ nào mới được chứ!

“Vui chứ sao không,” bà ngoại cả quyết.

“Thế chúng nó cãi nhau chuyện gì?” tôi hỏi.

“Ai mà biết” luôn luôn là câu trả lời của ngoại.

Nhưng rồi tới phiên cây liễu trên lề đường phía trước nhà chúng tôi. Nạn nhân của kế hoạch đô thị hóa gì gì đó của thành phố. Những nghị viên mù lòa màu sắc quyết định cắt bỏ cây liễu ấy. Lũ đao phủ của thành phố đem cưa điện và xe chở rác đến trước nhà chúng tôi. Bà ngoại mò mẫm ra tận bãi chiến trường. Cuống quýt xua hai tay. Gào khan cổ họng giữa những âm thanh chói tai của cưa điện và máy xay gỗ để chặn họ lại.

“Người ta phải gọi cảnh sát.” Wendy kể cho tôi nghe. “Bố mẹ đang ở chỗ làm. Bà ngoại ở nhà một mình. Bà không muốn người ta chặt cái cây ấy đi.”

Chuyện ấy tôi đã nghe kể rồi. Suốt một tháng trời, bà ngoại như người mất trí. Đi tới đi lui trong phòng khách. Rên rỉ luôn miệng, “Bây giờ chúng nó ở đâu? Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.”

Cả nhà không ai dám hỏi “chúng nó” là ai. Chúng tôi biết bà nói về lũ chim, cái đám chí chóe thường thức dậy thật sớm vào buổi sáng ấy. Trước khi tản mát khắp nới để mưu sinh (tôi mới học – và thích - hai chữ này). Buổi tối trở về, ẩn trong những nhánh cây liễu rậm rạp trước nhà. Chúng thường cãi cọ (hay chuyện trò?) tới tối mịt. Bây giờ người ta chặt cây liễu ấy đi. Người ta mở rộng con đường. Kế hoạch hiện đại hóa đô thị gì gì đó. Lũ chim mất nơi trú ngụ. Thành thật mà nói đôi khi tôi cũng băn khoăn. Mất cây liễu rồi lũ chim đi về đâu. Chỗ ở mới có an toàn và ấm cúng không.

Điện thoại lại reo. Nếu không là Wendy thì còn ai vào đây nữa. Tôi nghĩ trước khi liếc nhìn tên người gọi trên màn hình. Đúng là Wendy.

“Bà ngoại nhớ mấy con chim.” Chị nói.
“Em biết.”

Nhưng nỗi nhớ có giết được người ta không. Tôi muốn hỏi chị câu ấy.

“Mày đi xa, mày đâu biết chuyện gì xảy ra ở nhà,” chị nói. Cái giọng dỗi hờn.
“Em biết mọi chuyện đều ô-kê.”
“Mọi chuyện ô-kê là nhờ tao.”
“Điều đó ăn nhằm gì tới chuyện bà ngoại chết chứ?”
“Đừng nói với tao là mày không nhận ra rằng chính mày giết bà ngoại.”

Vẫn cái câu ấy! Tôi dộng cái điện thoại xuống bàn. Và câu chuyện cắt ngang ở đó.

Không có tiếng chim hót, bà ngoại ngã bệnh. Tôi biết chứ. Nhưng việc chặt cây liễu trước nhà đâu phải lỗi của tôi. Bầy chim không làm tổ trên mái nhà nữa cũng đâu phải tại tôi. Chim chóc quanh đây không còn nấn ná lại sân nhà chúng tôi để hót vài câu vặt vãnh cũng đâu phải là lỗi của tôi.

Vậy thì tại sao Wendy lại đổ thừa là tôi giết ngoại? Chắc chắn tôi là bị kết tội oan.

Chị lại gọi nữa. Tôi không có chọn lựa nào hơn là bắt điện thoại lên.

“Từ ngày ngoại bị mù, bố phải mua chiếc xe lăn để tao đẩy ngoại ra công viên, đẩy ngoại đến chùa, đưa ngoại đi mall...” Wendy nói với sự nồng nhiệt cao độ. Rõ ràng chuyện tôi cúp điện thoại chẳng ý nghĩa gì với chị hết.

“Thì em cũng đẩy xe cho bà ngoại vài lần, lúc em về nhà vậy,” tôi nói.

“Phải mất một thời gian lâu mới tìm ra được cái ngã tư thích hợp nhất...”

Big deal!

“Im miệng đi, nghe tao nói.”

Yes, your Majesty!

“Tao tìm được cái ngã tư có tiếng chim hót để báo hiệu giao thông cho người khiếm thị.”

“Em biết cái ngã tư ấy. Góc đường King với Queen.”

Tôi nhớ như in cái ngã tư ấy. Mùa hè vừa qua, khi về nhà, công việc thường nhật tạm thời của tôi là đẩy chiếc xe lăn (dĩ nhiên có bà ngoại trên ấy) ra phố. Và hình như Wendy có nhắc tôi nhớ ngừng ở ngã tư ấy càng lâu càng tốt. Về thăm nhà sau cả năm trời vắng mặt, tôi cũng mang chút mặc cảm là kẻ vô trách nhiệm và thiếu nhiệt tâm với gia đình. Thành ra tôi cũng chẳng hỏi tại sao.

“Em nhớ ngã tư King và Queen.”

“Đúng vậy. Đó là hiện trường, nơi xảy ra tội phạm.”

Mặt tôi lại bừng nóng. Tôi lặng im. Tôi ghét bị kết tội. Tôi cũng ghét luôn lối nói chuyện vòng vo vốn là nghề tay trái của Wendy. Nhưng tôi giữ im lặng.
“Sau khi phát hiện ra tiếng chim hót, ngày nào tao cũng đưa ngoại ra đó, tao ngừng ở đó một lúc để ngoại nghe chim hót.”

“Rồi sao?”

“Khi về nhà, ngoại nói chuyện vui vẻ. Những ngày mưa, hoặc khi có bão tuyết, không ra ngoài được, ngoại buồn. Ngoại bỏ ăn bỏ uống, chẳng nói năng gì hết.”

Câu chuyện (của Wendy) bắt đầu trở nên nhàm chán. Tôi muốn gào lên như thế. Nhưng tôi ngập ngừng. Đầu dây đàng kia, bà chị thân yêu của tôi vẫn lải nhải. Bài giảng dài bất tận.

“Có lần bà ngoại bảo bà nghĩ mấy con chim bỏ đi hết rồi. Người ta đốt rừng, chặt cây, lấp sông rạch, ao hồ để xây nhà, condo, hãng, xưởng, người ta phá hủy chỗ ở của loài chim. Thấy ngoại vui thì tao cũng vui, thành ra tao đâu dám nói với ngoại chim ở ngã tư là chim giả, chim điện tử.”

Những điều Wendy vừa nói ra gieo trong đầu tôi ý nghĩ gì đó kỳ lạ. Bà chị tôi tiếp tục rỉ rả, “Thấy ngoại vui, bố mẹ và cả tao nữa không dám nói cho ngoại biết tiếng hót ở ngã tư King và Queen là của lũ chim giả, bởi vì ai cũng biết bà ngoại cần hy vọng, để bám vào mà sống.”

“Giọng điệu của chị giống hệt mẹ, chị biết không? You sound like Mom.

Wendy trả lời bằng một câu hỏi. Thêm một thói quen nữa của chị. “Mày vẫn nhớ cái ngã tư đó mà, phải không?”

Dĩ nhiên tôi nhớ ngã tư ấy. Khu trung tâm thành phố. Toàn những văn phòng quan trọng của chính phủ chia đều bốn góc đường. Sở di trú, sở tìm việc, phòng trợ cấp xã hội và cảnh sát tỉnh bang. Chỗ ngã tư ấy khi đèn đổi màu xanh thì người ta cho phát ra tiếng chim hót líu lo thay vì tiếng lách cách ăn nhịp với những con số đếm ngược ở ngọn đèn giao thông dành cho người đi bộ.

“Mày còn nhớ mùa hè năm ngoái, lúc mày về nhà không?” Chị hỏi.

Ừ, thì tôi nhớ. Tôi nhớ ngày nào tôi cũng phải đưa bà ngoại ra ngoài. Tôi nhớ phải đẩy xe lăn cho ngoại đi mall. Ngừng ở ngã tư Queen và King trên đường về. Nhưng đâu có ai bảo tôi ngừng thật lâu ở cái ngã tư ấy. Hình như chị có dặn một đôi lần. Hình như chị bảo ngừng ở ngã tư ấy lâu một tí cho bà ngoại nghe tiếng hót của bầy chim. Tôi cũng không chắc nữa. Nhưng mà lúc ấy đang mùa hạ. Lại còn heat wave. Mồ hôi đầm lưng áo. Ngứa ngáy khó chịu. Ngừng mãi ở cái ngã tư không bóng cây ấy để làm gì.

“Mày giết bà ngoại ở ngã tư Queen và King.”

Wendy nhắc lại bằng giọng cả quyết.

“Vô lý” là câu trả lời ngắn ngủn của tôi.

“Sau khi mày trở lại trường, bà ngoại không còn muốn xuống downtown nữa.”

“Vậy thì sao?”

“Và mày có biết trước khi mất bà ngoại nói gì không?”

“Cái gì?”

“Bà không muốn sống nữa vì tất cả lũ chim đã bỏ đi hết rồi.”

“Em đâu có đuổi chúng nó đi.”

Tôi trừng trừng nhìn vách tường vôi trắng trước mặt. Tôi thấy rõ ràng Wendy đang đứng đó. Tay chống nạnh, môi trề ra khinh mạn. Tay tôi run, chân tôi đuối. Tôi muốn nhào tới nắm tóc Wendy, kéo bật ra khỏi cái đầu nhồi nhét đầy những cáo trạng kia.

“Mày không đuổi lũ chim đi nhưng,” chị chuyển giọng gầm gừ. “Mày bảo ngoại là những con chim ở góc Queen và King là chim giả. Mày dập tắt niềm tin, mày tước đoạt lý do để tiếp tục sống của ngoại. Mày…” giọng chị lạc đi. “Mày giết ngoại!”

Tôi bỗng hụt hơi như vừa leo con dốc dài. Đoạn phim chiếu chậm trước mắt tôi. Chuỗi hình ảnh buổi sáng oi bức ấy. Tôi thấy nắng lột bong da tôi. Tôi thấy mồ hôi dán tóc tôi lên má. Tôi thấy mặt tôi cau có, cổ họng tôi gầm gừ.

Tôi thấy đôi môi khô hạn của bà ngoại. Hai vạch màu thâm tím mấp máy không ngừng. Câu chuyện kể đi kể lại về lũ chim. Chuyến bay về phương nam trốn lạnh. Và may mắn cho những con chim không thể bay xa có được nơi ẩn náu ngay trung tâm thành phố. Tôi thấy tôi hét vào tai bà ngoại. Những tiếng hót bà đang nghe thấy là tiếng của lũ chim giả. Chẳng còn con chim nào trong thành phố hết. Bất cứ nơi nào có con người thì chim chóc phải ra đi. Ngoại phải tỉnh dậy để hít hà hương vị cà phê của thực tại. Wake up and smell the coffee of reality, Granny! Tôi đã gào lên bằng cả hai ngôn ngữ trong tiếng xe cộ rì rầm trên phố.

“Annie, mày còn ở đó không?”

What?”

“Mày hiểu điều đó mà, phải không?”

Tôi im lặng. Và tôi thấy lòng tôi dịu lại, “Vâng, em biết là tất cả những con chim đã bỏ đi.”

Wendy ngừng một lúc. Chị đang chờ một cách tuyệt vọng câu trả lời của tôi – hay đúng hơn là một lời thú tội.

Câu nói của bà ngoại vang trong óc tôi, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.”

Thành ra tôi nói cho chị yên lòng. Và vì nhận tội thay cho cả chủng loại con người, tôi dùng thứ ngôn ngữ mà hầu như ai nghe cũng hiểu, “And I’m guilty of that!

Hoàng Chính
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có cảm giác mọi người trong xưởng rất thương mến anh em ông chủ hơn sợ chủ đuổi việc, và anh em ông chủ cũng thương mến mọi người như anh em chứ không chủ thợ rạch ròi. Việc đến phải đến, ông chủ mướn người vô chạy máy sỏi đá mà tiếng Anh gọi là “deburr machine” thay cho ông Mỹ đen đã qua đời. Ông này dị tướng nên anh em chờ xem tài của ông vì ông bà mình nói những người dị tướng thường có tài. Nhưng một tuần trôi qua, chỉ có tuần tới tiếp tục chứ không có gì lạ về ông trọ trẹ. Ai cũng biết ông người miền trung nhưng ai hỏi ông là người tỉnh nào ngoài trung thì ông gắt gỏng chứ không trả lời. Ông lên lớp giảng giải cho người miền bắc, người trong nam hiểu ra chính sách chia để trị của thực dân Pháp chứ đất nước Việt nam liền một dải, người dân từ bắc vô nam nói chung một ngôn ngữ là tiếng Việt từ đời cha ông để lại giang sơn gấm vóc nước Việt cho con cháu. Sao người Việt lại nô lệ tự nguyện cho Pháp, đi phân biệt bắc trung nam để chia rẽ chính dân tộc mình…
Ba chục năm trước, Bê đã bắt đầu sự nghiệp thể thao của Bê. Số là, Ba vừa học xong lớp chuyển nghiệp. Thời gian chuẩn bị thi cử, Ba dạy kèm cho một người bạn cùng lớp. Thi đậu, người bạn tạ ơn Ba một cặp vé Musik Konzert. Lúc đó, Bê ở trong bụng Mẹ đã hơn sáu tháng. Mẹ kể, Mẹ đang năm đầu ở đại học. Trời mùa đông, Mẹ đi học, mặc áo khoác dày cui. Bởi vậy, bạn học không ai biết Mẹ sắp sửa có em bé, chỉ ngỡ Mẹ hơi lên cân, zugenommen. Bác bạn của Ba có lẽ không dè vợ của bạn là bà bầu nên mới mời đi Rock Pop Konzert của ca sĩ Jennifer Rush.
Năm đó, 1999, miền Trung Việt Nam nhất là ở Huế đang chịu trận thiên tai bão lụt lịch sử lớn nhât từ trước cho đến thời điểm bấy giò. Trong hội chợ tết, người Việt ở đây San Jose vui Xuân nhưng không quên đồng bào ở quê nhà. Từng đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam được phân phối nhiệm vụ cầm những thùng lạc quyên để quyên tiền cứu trợ. Đang lang thang trong hội chợ, hai em bé trong đồng phục Hướng Đạo chận tôi lại. Một trai một gái. Bé gái cao hơn bé trai non nữa cái đầu, chửng chạc nói “Chú ơi, ủng hộ đồng bào bảo lụt đi chú”. Trọn một câu tiếng Việt, tuy phát âm không trọn vẹn, nhưng khá rõ ràng. Tôi nhìn hai em, nhất là bé gái đang thắt cái nơ trên đầu cái nơ mầu đỏ! Tôi bỗng thấy lòng bâng khuâng man mác.
Qua sự giới thiệu của phụ huynh học sinh, chiều nay tôi có thêm học trò mới. Tuy tin tưởng vào người giới thiệu, nhưng tôi cũng có sự dè dặt thường lệ. Đây không phải là lớp dạy thêm bình thường, mà là lớp dạy kèm “Anh văn chui” tại nhà. Nếu bị bắt “tại trận”, tôi có thể bị đuổi việc (nhẹ) hoặc cả vào trại tù "miệt thứ" dài hạn như chơi. Tuy rất nguy hiểm, nhưng được sự “bảo mật” của học trò lẫn phụ huynh và nhất là khoản tiền thù lao rất hậu. Lương giáo viên cấp 3 lúc đó (1978-1979) mỗi tháng $70 đồng cộng nhu yếu phẩm, thì mỗi học sinh "dạy thêm" tôi nhận được $80/ tháng. Chỉ cần ba học trò là mỗi tháng tôi có thêm đến $240 đồng. Đối với giáo viên lúc đó không phải nhỏ! Cà phê cà pháo, cơm hàng cháo chợ cuối tháng vẫn dư tiền bỏ ống. Phần nữa, học trò lớp “Anh văn chui” của tôi thông thường chỉ vài ba tháng là “ra đi”, nên cũng thường xuyên thay đổi.
Vừa đi vừa ngắm lá vàng vừa suy nghĩ chuyện cũ mà đến nhà Sarah hồi nào hổng hay. Sarah mở cửa với nụ cười thật tươi, Lệ thấy ngay phòng khách những giỏ táo đầy ắp, Sarah giải thích: - Hễ cuối hè đầu thu là nhà tớ hái toàn bộ các trái táo ngoài vườn sau, một phần để sên mứt, phần sấy khô, và phần làm bánh táo nướng.
Nhà thơ Trần Mộng Tú gửi tới tôi bài “Mùa Hạ Đom Đóm và Dế Mèng” khi tôi muốn cùng các ông bạn đồng lứa tuổi trở về những ngày xưa thật xưa. Chị Tú hình như cũng cùng tâm trạng với các bạn không còn trẻ của tôi: “Tháng sáu, tôi đến chơi với anh tôi ở Virginia. Cái nóng rịn mồ hôi trên thái dương, và khó ngủ lắm, buổi tối, tôi với anh ra ngồi ở bực thềm, nói chuyện. Tôi bỗng thấy thỉnh thoảng có những chớp nho nhỏ như lân tinh sáng lóe lên rồi lại biến mất trong bụi cây thấp trước mặt, hỏi anh tôi, cái gì thế? “Đom Đóm” Tôi lặng người đi một lúc như nghe thấy ai nhắc tên một người bạn thân cũ, nó làm tôi xúc động. Xúc động một cách rất mơ hồ, chẳng có nguyên nhân gì cả, chỉ là cái tên của một loại côn trùng bé tí được gọi lên. Cái tên nhắc nhở một quê hương xa lắc, một dĩ vãng nằm dưới tấm chăn phủ dầy lớp bụi thời gian. Trong bóng tối, tôi ngắm những cái chấm lửa nhỏ nhoi, lóe lên rồi tắt ngóm với trái tim nôn nao trong ngực. Có đến cả hơn bốn mươi năm tôi không được nhìn thấy những đố
Tọa lạc trong vùng ngoại ô Saint Maur, kề bên là bờ sông Marne hàng hiên ngang cửa nhà chú, chú đổ đầy đất đen đất vụn phải đi mua từng bao ở siêu thị bán cây trồng đất mua chú đổ vào lưng một cái bac ciment rộng lớn chạy ngang hàng hiên nhà. Trong bac chú trồng đầy hoa vàng, hoa nở thì lớn bằng đồng 50 xu, có năm cánh y hệt mai vàng ở Việt Nam, lá xanh non to bằng bàn tay con nít 5, 3 tuổi. Lá cũng rất thưa, hoa rất đẹp, vàng trong như mai ngày tết. Khi nắng gắt, mầu vàng có đậm thêm tí chút, sáng hé nở, trưa ấm nở rộ. Chiều chiều hoa cúp lại ngủ, ngày mai sáng sớm lại mãn khai, thân cây hoa chỉ cao lắm là đến đầu em bé 5, 6 tuổi. Nên hoa và cây không che vướng tầm nhìn từ trong nhà ra ngoài trời. Chú Phương yêu quý những cây hoa đó lắm. Vun tưới thường xuyên. Hỏi tên hoa đó là hoa gì? Chú trả lời ngon ơ: Đó là hoa vông vang của Đỗ Tốn, Chúng tôi không nhớ và cũng không biết ông Đỗ Tốn là ai
Trong sự bồi hồi xúc động, tay bắt mặt mừng, họ được gặp lại để trò chuyện với những người họ hàng thân yêu, những bạn bè xa gần thân thiết, nhìn thấy tận mắt những làng xưa chốn cũ, nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp từ thuở thơ ấu cho đến ngày tạm thời phải rời bỏ những nơi này ra đi, ôi biết bao nhiêu nỗi xúc động trộn lẫn niềm sung sướng vô biên, nói làm sao cho hết được.
Những yếu tố lôi cuốn du khách đi du lịch đến một đất nước bao gồm cảnh đẹp thiên nhiên, văn hóa, thành phố lớn với những lối kiến trúc độc đáo, cuộc sống sôi động, ẩm thực, hoạt động phiêu lưu, kỳ thú ngoài trời, những buổi hòa nhạc, thể thao, nghệ thuật, hay lễ hội, địa điểm hành hương tôn giáo, phương tiện giao thông, vấn đề an ninh và bình yên; trong văn hóa, yếu tố con người chiếm một phần rất lớn khiến du khách khi rời xa, vẫn lưu luyến muốn trở lại lần nữa.
Nếu quý vị độc giả nào đã đọc câu chuyện tình cảm éo le, oan trái tràn đầy nước mắt: "Thằng Cu Tí và Thằng Cu Tèo" và nếu quy vị nào chưa đọc, thì xin hãy mở Google.com sẽ thấy đế tài này thuật lại 2 vị cao niên về thăm VN để hưởng tuần lễ trăng thanh gió mát quê nhà, sau nhiều năm phải rời bỏ quê hương để sống tha hương ngàn trùng xa cách nơi đất khách quê người đi tìm sự tự do. Nay mới có dịp được quay trở về thăm quê cha đất tổ, đồng thời còn được thưởng thức những món ăn đặc sản quê hương
Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực 'xương máu' của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
Lúc xưa thật xưa, người Việt Nam ta có tục lệ bầy cỗ Trung Thu vào dịp tết trăng tròn tháng 8 âm lịch. Cỗ này thường để dành cho trẻ con, vừa vui Trung Thu, vừa ăn bánh vừa ngắm trăng tròn, sáng tỏ. Thường cỗ này gồm phần lớn là bánh Trung Thu, bánh dẻo bánh nướng và rất nhiều thứ trái cây, trái cây chánh là bưởi, bưởi hồng đào ngọt và tròn xoay như một vầng trăng. Ăn bưởi xong, có thể sâu hột trái bưởi, phơi khô đi sem sém, và có thể đốt hạt bưởi từng sâu như đốt nến, đèn cầy.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.