Hôm nay,  

Đi trong mùa Thu

02/11/202221:22:00(Xem: 3184)
Tản mạn

japanese lake


Tôi đứng trong buồng khách, nhìn ra ngoài trời. Trời quang và khô, cơn mưa hôm qua không để lại một vũng nước nào, chỉ giúp cho những chùm lá có mầu xanh sạch bóng, mướt rượt, và những cây có lá vàng thi nhau trút xuống nhưng vẫn giữ lại những cành đẹp nhất để rung múa với gió thu.

 

 Trời bên ngoài quyến rũ quá! Tôi quyết định rất nhanh cho mình một buổi sáng đi bộ dưới bầu trời mùa thu. Hoa tươi trong nhà cũng vừa tàn, cần hoa mới. Giầy vải, áo len, quần jeans, khăn quàng, cho mấy đồng vào túi, tôi đi bộ ra chợ mua hoa.

 

Tôi mở cửa bước ra ngoài, đứng một giây tĩnh lặng, ngắm nhìn rặng núi mùa thu xanh lam chạy một vòng trước nhà từ bên trái sang bên phải, bên dưới núi là thông xanh ngọc bích, phong đỏ, phong vàng, mọc chen kẽ với những mái nhà có ống, đang bốc khói. Trông toàn cảnh giống như một giải thắt lưng gấm dệt bọc ngang vòng eo của chiếc hồ bên dưới. Nước hồ trong xanh, những đám khói sóng bốc lên mơ màng, những đám mây trắng trên cao hoang mang thả xuống. Tôi ngửa mặt, hít không gian ngọt như đường vào lồng ngực, bước từng bước, tôi cũng hoang mang trôi mình xuống con dốc nhỏ, ra phố.

 

Quãng đường đầu tiên, còn trong xóm, tôi vừa đi vừa đếm những thùng thư bên đường trước mỗi căn nhà, nghĩ đến những hóa đơn nằm lẫn vào những lá thư tình (Có ai còn viết thư tình không nhỉ?) Tưởng tượng những tấm thiệp từ một nơi xa xăm nào đó của người lang bạt gửi về, chờ bàn tay ai rạo rực mở; những tờ quảng cáo đầy mầu sắc, sẽ bị vứt đi trước nhất. Đếm những gốc cây, tìm con sóc, con thỏ hoang như tìm một hạnh phúc tình cờ; nhìn vào từng cánh cửa mỗi ngôi nhà, đoán ai đã thức, ai còn đang ngủ, đoán có bao nhiêu tiếng cười, bao nhiêu giọt lệ (hy vọng giọt lệ ít hơn tiếng cười).

 

Khu xóm thật yên tĩnh, thỉnh thoảng mới thấy bóng người dậy sớm, thấp thoáng sau tấm kính mờ. Đã có một hai nhà sửa soạn chăng đèn giáng sinh sớm, trên những cây lá vàng chưa rụng hết, hãy còn từng chùm lưu luyến trên cánh tay cây. Thỉnh thoảng gặp người đi bộ, khăn quàng, giầy vải giống mình, đi ngược chiều với con chó và cái xích dài, con chó không mặc áo len, không đi giầy vải (sao nó không lạnh nhỉ?)

 

Tôi đã ra đến đường phố, tôi cần đi mười hai ngã tư mới đến chợ. Hai tay bỏ vào túi áo khoác cho ấm, tôi vừa đi vừa đếm từng ngọn đèn ở mỗi khúc đường, vừa đếm bước chân mình, nghe tiếng xe băng băng lướt qua mình, nhìn gió vò đầu những bụi cây thấp, nghe gió tuốt lá những cây cao thả xuống đường; lá vàng, lá đỏ rơi dưới đất trông như đàn cá vàng đang lội tung tăng. Mùa thu quyến rũ thật! Mặc dù tôi đang đi trong thu tàn, mùa đông đang dọn đến từ từ trên những cành trơ lá, trên những giọt mưa, trên những cơn gió. Tôi nhủ tôi, cuối năm rồi đó!

 

Từ nhà ra phố, ghé vào chợ, tôi đi mất bốn mươi phút. Tôi vào chợ, không dám mua nhiều, sợ không ôm hết, tôi chọn mua mấy quả táo đỏ rực, cây rau xà lách xanh mướt, đi vào khu hàng hoa, tôi cúi xuống lựa một bó hoa mùa thu với mầu vàng và mầu cam. Tôi ôm những mầu sắc rực rỡ đó vào lòng, quay trở về. Lần này tôi không hoàn toàn đi phía ngoài hè phố nữa, có một phần ba đường, tôi có thể băng qua “Công Viên Cá Voi.” Tôi đặt tên cho công viên đấy, vì trong công viên, chỗ để xích đu và cầu tuột cho trẻ em, có một cái hồ cát đặt con cá voi ciment xanh khổng lồ, phun nước cho trẻ chơi trong mùa hè.

 

Vào buổi sáng mùa thu cuối tuần như sáng nay, công viên rất vắng, cha mẹ chắc còn ôm con trong chăn ấm. Một mình tôi băng qua công viên. Tôi bước trên mặt đất ướt, cỏ vẫn có mầu xanh, nhưng trên mặt cỏ, đó đây rắc rải rác từng cụm  lá vàng, và rất nhiều lá mũi kim của thông đã ngả sang mầu nâu nằm chen chúc trong cỏ. Tôi nghe gót giầy thỉnh thoảng lún xâu xuống khi gặp chỗ đất sũng nước. Cả một vòm trời mở rộng trên cao, bao dung cúi xuống một tôi bé tí teo. Tôi ôm một ôm mùa thu: đỏ, cam, vàng, xanh trong ngực, ngước mặt lên nhìn trời. Mây vô xứ đang lang thang từng cụm, trôi về đâu? Mây đến rồi mây đi, mây tụ rồi mây tan. Tôi vô xứ lang thang một mình, đi về đâu? Tôi đang đi về một chỗ gọi là “Nhà”. Có nhà nhưng không có quê, có quê nhưng không có xứ, có xứ nhưng không có nước, có nước nhưng… biết nói sao bây giờ!

 

Tôi ôm mùa thu trong lòng, vừa đi vừa ấm ức với thu. Nhưng tôi phải trở về căn nhà tôi đang ở, nơi đó có những người thân yêu của tôi đang đợi tôi về nhóm lửa, làm ấm căn bếp nhỏ. Gạo cần được thổi thành cơm, thịt và rau cần nấu thành canh, những chiếc đũa cần xếp thành đôi như vợ như chồng, những chiếc bát bầy ra như con như cháu.

Mùa Thu đến rồi đi. Đông qua Xuân tới, Hạ về... Đời người là thế.

 

Một đời người, có được bao nhiêu lần đi trong mùa Thu? Những chiếc lá vàng có biết không?

 

Trần Mộng Tú

(11/02/2022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.